.jpg)
Bàn về áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” trong trường hợp bị cáo không thừa nhận phạm tội
Trong pháp luật hình sự, việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không chỉ có ý nghĩa trong lượng hình, mà còn phản ánh chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội. Đây là các quy định bảo đảm sự công bằng, phân hóa hợp lý, đồng thời khuyến khích người phạm tội hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng.
Một trong những tình tiết được vận dụng phổ biến là “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015. Về nguyên tắc, tình tiết này phản ánh hai khía cạnh: (i) thái độ tố tụng, thể hiện sự trung thực, hợp tác trong khai báo và (ii) thái độ đạo đức, biểu hiện sự hối lỗi, mong muốn khắc phục hậu quả.
Tuy nhiên, còn nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trong các vụ án mà bị cáo kêu oan. Điều này đặt ra câu hỏi pháp lý quan trọng: liệu việc không thừa nhận phạm tội (kêu oan) có làm cho bị cáo mất đi quyền được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” hay không.
1. Các quy định pháp luật về tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”
Tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Đây là sự kế thừa quy định từ các BLHS trước nhằm khuyến khích thái độ hợp tác, hối lỗi, đồng thời là cơ sở quan trọng để Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Theo Sổ tay Thẩm phán năm 2023 của Tòa án nhân dân tối cao[1] thì:
Thành khẩn khai báo là trường hợp người phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã khai đầy đủ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện;
Ăn năn hối cải là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm về tội lỗi của mình không chỉ bằng lời nói mà còn phải bằng những hành động, việc làm cụ thể để chứng minh cho việc mình muốn sửa chữa, cải tạo thành người tốt; bù đắp những tổn thất, thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra.
Mức độ giảm nhẹ của việc thành khẩn khai báo phụ thuộc vào sự thành khẩn được thực hiện ở giai đoạn tố tụng nào và ý nghĩa thiết thực của sự thành khẩn trong việc giải quyết vụ án; mức độ giảm nhẹ của sự ăn năn hối cải phụ thuộc vào mức độ ăn năn hối cải của người phạm tội, những hành động, việc làm cụ thể chứng minh cho sự ăn năn hối cải đó.
Tại mục 3 Phần I Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử đã giải thích về tình tiết giảm nhẹ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải như sau: “….Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra.”.
Theo Công văn số 174/TANDTC-PC ngày 31/8/2023 về việc áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS của Tòa án nhân dân tối cao nêu: ““Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra; tình tiết “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải” không phải là hai tình tiết độc lập”. Do đó, nếu người phạm tội “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” thì chỉ được coi là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.”.
Khoản 1 Điều 50 BLHS năm 2015 nêu rõ: khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Điểm d khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định: “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo…”. Tác động pháp lý của tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” là Tòa án sẽ xem xét để giảm nhẹ mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt hoặc nếu bị cáo có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, Tòa án có thể áp dụng một trong hai biện pháp sau: (i) Quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố; (ii) Chuyển sang một hình phạt nhẹ hơn loại hình phạt đang bị áp dụng quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015. Do vậy, việc được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” hay không có ý nghĩa quan trọng.
2. Một số vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện
Để làm rõ hơn các vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, tác giả viện dẫn các tình huống thực tế sau đây với 02 quan điểm khác nhau về việc có áp dụng tình tiết “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” khi bị cáo kêu oan.
(1) Tình huống thứ nhất:
Bị cáo Lê Thị D, nguyên Giám đốc Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện HN, bị xử phạt về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2023/HS-ST ngày 24/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện H đã quyết định: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 356 BLHS; điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Lê Thị Dung 05 năm tù. Bản án sơ thẩm thể hiện Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định rằng: “Bị cáo Lê Thị Dung thừa nhận hành vi của mình đã thực hiện nhưng do nhận thức pháp luật của bị cáo nên không thừa nhận mình phạm tội. Điều này thể hiện Lê Thị Dung đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, do đó Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo. Việc Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo là thiếu sót, cần rút kinh nghiệm...”[2]. Sau đó, Hội đồng xét xử đã áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, giảm hình phạt cho bị cáo Lê Thị Dung từ 05 năm tù xuống còn 15 tháng tù.
Vụ án này thể hiện rõ hai quan điểm trái chiều nhau về việc có áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 cho bị cáo trong trường hợp kêu oan.
(2) Tình huống thứ hai:
Bị cáo Tạ Ngọc T bị Tòa án nhân dân thành phố P xét xử 05 năm theo Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2025/HS-ST ngày 16/6/2025.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 với nhận định: “Tại phiên tòa bị cáo không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, việc đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS là có căn cứ”[3].
Quan điểm khác cho rằng bị cáo có nhận tội hay không thì vẫn phải áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.
Như vậy, hai tình huống nêu trên là ví dụ cho sự khác nhau về quan điểm khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 trong trường hợp bị cáo không nhận tội.
Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật đặt ra một số vấn đề cần được làm rõ, bảo đảm thống nhất trong áp dụng pháp luật như sau:
Thứ nhất, việc bị cáo kêu oan không đồng nhất với việc không “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”.
Thực tế cho thấy, có điểm chung trong một số vụ án là bị cáo không thừa nhận hành vi của mình là tội phạm hoặc cho rằng hành vi của mình chỉ bị xử phạt hành chính, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên kêu oan tại phiên tòa. Tuy nhiên, vẫn còn quan điểm đồng nhất việc kêu oan với không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Nhiều trường hợp bị cáo đã khai hết toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội nhưng họ cho rằng, hành vi của mình không phải là tội phạm, nhiều Thẩm phán căn cứ vào yếu tố này nên không áp dụng tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo”. Tác giả cho rằng, trường hợp này cần xác định họ đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi của mình, nhưng do hiểu biết về pháp luật còn hạn chế nên họ không nhận thức được hành vi của mình trái với quy định của pháp luật nên mới không thừa nhận. Trường hợp này bị cáo hoàn toàn đủ điều kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo”[4].
Do đó, nếu không cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ chỉ vì bị cáo kêu oan như các tình huống nêu trên là vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật, ảnh hưởng quyền của bị cáo.
Tác giả đề xuất Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ quy định tại Điều 51, 52 BLHS năm 2015 nói chung cũng như có hướng dẫn chi tiết đối với tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 trên cơ sở tổng hợp các giải đáp đã có và bổ sung một số trường hợp khác mà quan điểm áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất.
Tác giả cũng đề xuất sử dụng Bản án hình sự phúc thẩm số 88/2023/HS-PT ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh N làm nguồn án lệ với tình huống án lệ và giải pháp pháp lý: “Bị cáo Lê Thị Dung thừa nhận hành vi của mình đã thực hiện nhưng do nhận thức pháp luật của bị cáo nên không thừa nhận mình phạm tội. Điều này thể hiện Lê Thị Dung đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, do đó Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo”.
Thứ hai, về áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội
Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “…Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Suy đoán vô tội thể hiện quan điểm của Nhà nước tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người, tôn trọng tính “bản thiện”, loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình tố tụng[5].
Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội chi phối tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó có giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng - giai đoạn xét xử và việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội phải bằng nhiều khía cạnh khác nhau trong quá trình xét xử, trong đó có việc áp dụng hay không áp dụng tình tiết “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Bởi vì, một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc suy đoán vô tội đó là: “mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho họ”.
Trong các trường hợp cụ thể ở trên, nếu bị cáo “do nhận thức pháp luật của bị cáo nên không thừa nhận mình phạm tội” thì Hội đồng xét xử phải áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 cho bị cáo, không nên áp đặt theo hướng phải nhận tội thì mới áp dụng.
Kết luận
Tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” là biểu hiện cụ thể của chính sách hình sự nhân đạo, nhưng trong thực tiễn vẫn còn nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau, đặc biệt khi bị cáo kêu oan. Cần có sự thống nhất trong nhận thức và hướng dẫn áp dụng cụ thể hoặc bằng án lệ để bảo đảm nguyên tắc công bằng, suy đoán vô tội và bảo vệ quyền con người trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Thẩm phán, Hội đồng xét xử phải thực sự công tâm và công minh trong từng bản án hình sự liên quan rất lớn đến quyền con người. Có như vậy mới bảo đảm ban hành một phán quyết thấu tình đạt lý như lời của Tổng bí thư Tô Lâm đã phát biểu: “Các vụ án, vụ việc dù tính chất, mức độ nào thì cũng không được phép để xảy ra oan, sai nghiêm trọng, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Ngành tòa án phải không ngừng phấn đấu để mọi phán quyết đều “thấu tình, đạt lý” - nghiêm minh về pháp luật nhưng cũng giàu tính nhân văn, vừa bảo vệ kỷ cương phép nước, vừa giữ gìn sự ổn định, hài hòa trong xã hội, nuôi dưỡng niềm tin, khát vọng sống tốt đẹp trong nhân dân, để tòa án không chỉ là cơ quan xét xử, mà phải trở thành biểu tượng của công lý và niềm tin của nhân dân, là điểm tựa vững chắc để người dân gửi gắm sự công bằng và lẽ phải”[6].
[1] Tòa án nhân dân tối cao, Sổ tay Thẩm phán, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, năm 2023, tr.155.
[2] Bản án hình sự phúc thẩm số 88/2023/HS-PT ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh N.
[3] Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2025/HS-ST ngày 16/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh K.
[4] Lê Ngọc Nam, Về áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, https://tapchitoaan.vn/ve-ap-dung-tinh-tiet-giam-nhe-%E2%80%9Cnguoi-pham-toi-thanh-khan-khai-bao-an-nan-hoi-cai%E2%80%9D, truy cập ngày 02/10/2025.
[5] Phí Thành Chung, Yêu cầu thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử, https://tapchitoaan.vn/yeu-cau-thuc-hien-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-giai-doan-xet-xu?, truy cập ngày 02/10/2025.
[6] TTXVN, Tổng Bí thư: Ngành tòa án phải phấn đấu để mọi phán quyết đều thấu tình, đạt lý, https://tuoitre.vn/tong-bi-thu-nganh-toa-an-phai-phan-dau-de-moi-phan-quyet-deu-thau-tinh-dat-ly-20250913143425691.htm, truy cập ngày 02/10/2025.
Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử vụ án hình sự về tội giết người - Ảnh: CALC.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Trao đổi về bài viết “Bàn về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do “nhầm lẫn, giả tạo” trong giao dịch dân sự”
-
Bàn về hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do “nhầm lẫn, giả tạo” trong giao dịch dân sự
-
Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang: Khẳng định Đoàn kết - Phát triển - Vững mạnh - Toàn diện
-
Tổng Bí thư Tô Lâm: “Nhà nước phải bảo đảm quyền sử dụng đất công bằng, hiệu quả cho mọi người dân”
-
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ I: “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển”
Bình luận