Hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án: Một số bất cập và hướng hoàn thiện

Thạc sĩ, NCS. Giảng viên Trường Đại học Luật Tp. HCM.

           Đặt vấn đề

         Đến nay, pháp luật Việt Nam quy định về cơ sở pháp lý cho hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án một cách rõ ràng không chỉ trong Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP mà còn quy định trong các lĩnh vực pháp luật nội dung lẫn pháp luật hình thức (tố tụng). Cụ thể tại khoản 2 Điều 8 quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau”. Tại khoản 2 Điều 6 của BLDS năm 2015 cũng quy định: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 45 của BLTTDS năm 2015 quy định: “Việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng được thực hiện như sau: Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và Khoản 1 Điều 6 của Bộ luật Dân sự, khoản 1 và khoản 2 điều này”. Nhằm cụ thể khoản 3 Điều 45, BLTTDS năm 2015 còn quy định chi tiết hoạt động áp dụng án lệ của tòa án ở cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm tại điểm b, khoản 2, Điều 266[1] và khoản 4, Điều 313[2] của Bộ luật này. Ngoài ra, Luật Tố tụng hành chính (TTHC) cũng quy định cơ sở pháp lý cho hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án ở cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm tại điểm b, khoản 2, Điều 194[3] và khoản 4, Điều 242[4] của Luật TTHC năm 2015. Hoạt động áp dụng án lệ của tòa án cũng còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên vẫn còn nhiều khó khăn đặt ra cần giải quyết. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ phân tích những bất cập còn tồn tại trong hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra những kiến nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án.

1.Một số hạn chế, bất cập về hoạt động áp dụng án lệ 

         Thứ nhất, pháp luật quy định Tòa án tuân theo án lệ xuất phát từ hiệu lực pháp lý của án lệ[5] sẽ dẫn đến nguy cơ Tòa án dụng án lệ một cách cứng nhắc. Mặc dù Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP cũng dự liệu trường hợp án lệ không còn phù hợp nên cho phép Tòa án có quyền năng bác bỏ án lệ nhưng Tòa án khó có thể thực hiện quyền năng này. Tại khoản 3 Điều 9 Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP quy định cho phép Tòa án không áp dụng án lệ: “Trường hợp Hội đồng xét xử không áp dụng án lệ và có phân tích, lập luận nêu rõ lý do trong bản án, quyết định thì ngay sau khi tuyên án phải gửi kiến nghị thay thế án lệ về Tòa án nhân dân tối cao”. Như vậy, nếu không áp dụng án lệ thì Tòa án phải gửi kiến nghị thay thế án lệ đến TANDTC. Kiến nghị thay thế án lệ chưa biết có được TANDTC chấp nhận hay không nhưng nguy cơ bị Tòa án cấp trên hủy án là có thể. Chẳng hạn, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm không áp dụng án lệ và có kiến nghị thay thế án lệ, thời gian xem xét kiến nghị thay thế của TANDTC sẽ lâu hơn thời gian thực hiện thủ tục tố tụng. Nếu Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không đồng ý với quan điểm Hội đồng xét xử sơ thẩm mà vẫn áp dụng án lệ. Như vậy, bản án của tòa án sơ thẩm có thể bị hủy, hoặc sửa bởi Tòa án phúc thẩm. Đứng trước sự chọn lựa giữa yêu cầu về tính hợp pháp (áp dụng án lệ) và tính hợp lý (kiến nghị thay thế án lệ) của phán quyết tư pháp thì các Tòa án chọn yêu cầu hợp pháp sẽ đơn giản và an toàn hơn. Điều này có nguy cơ dẫn hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án Việt Nam chỉ có thể bảo đảm được công lý hình thức (formal justice) chứ không thể đạt được công lý thực chất (substantive justice).

         Thứ hai, đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định yếu tố bắt buộc nằm ở phần “Khái quát nội dung của án lệ” hay phần “Nội dung của án lệ” theo mẫu án lệ đã công bố. Công văn số 146/TANDTC-PC của TANDTC ngày 11 tháng 7 năm 2017 có hướng dẫn xác định yếu tố bắt buộc của án lệ ở phần “Khái quát nội dung của án lệ” như sau: “Trường hợp áp dụng án lệ thì số án lệ, số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ (nội dung khái quát của án lệ) phải được viện dẫn, phân tích trong phần Nhận định của Tòa án”. Thực tiễn áp dụng án lệ, một số Tòa án còn trích toàn bộ nội dung của phần “Khái quát nội dung của án lệ” trong phần lập luận của mình. Chẳng hạn, Bản án số 61/2017/ KDTM-ST ngày 3 tháng 8 năm 2017 của TAND quận Gò Vấp trích toàn bộ nội dung của phần “Khái quát nội dung của án lệ” của án lệ số 08/2016/AL. Tuy nhiên, theo quan điểm của PGS. TS. Đỗ Văn Đại thì xác định tình tiết tương tự của án lệ có giá trị bắt buộc tuân theo nằm ở phần “Nội dung của án lệ” bởi phần “Khái quát nội dung của án lệ” không là “lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” mà chỉ là nội dung do bộ phận giúp việc của TANDTC xây dựng nên không thể là án lệ. Do đó, nội dung của phần “Khái quát nội dung của án lệ” chỉ mang tính tham khảo, không có giá trị bắt buộc.[6]

         Thứ ba, các Thẩm phán chưa được trang bị kỹ càng kỹ năng xác định tình tiết cơ bản có tính chất tương tự trong hoạt động áp dụng án lệ. Điều này dẫn đến tình trạng cùng một tình tiết nhưng các tòa án áp dụng án lệ có quan điểm khác nhau. Tòa án này cho rằng đó là tình tiết cơ bản nhưng Tòa án khác lại không cho là tình tiết cơ bản. Chẳng hạn, trong một vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản” do TAND Tp Cần Thơ giải quyết. Nội dung vụ việc này có tình tiết cơ bản tương tự với án lệ số 02/2016/AL là Người Việt kiều nhờ Người Việt Nam đứng tên mua tài sản. Tuy nhiên, tại Bản án số 20/2017/DS – PT ngày 24/02/2017, Tòa này đã không áp dụng án lệ số 02. Lý do không áp dụng án lệ cũng được thể hiện rõ trong phần lập luận của bản án này là có sự khác biệt về tình tiết, trong án lệ số 02 có tình tiết là Người Việt kiều “trực tiếp” giao dịch với người bán tài sản (đất) còn vụ việc Tòa này giải quyết có tình tiết Người Việt kiều “không trực tiếp” giao dịch mà đưa tiền cho người đứng tên dùm giao dịch.  Ngược lại, trong Bản án số 208/2017/ DS – PT của TAND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh ngày 29 tháng 8 năm 2017, mặc dù cũng có tình tiết Người Việt kiều “không trực tiếp” giao dịch mà đưa tiền cho người đứng tên dùm giao dịch nhưng Tòa này vẫn áp dụng án lệ số 02/2016/AL yêu cầu người đứng tên dùm phải trả nhà lại cho Người Việt kiều.

         Thứ tư, pháp luật quy định rõ thời điểm có hiệu lực của án lệ có thể dẫn tình trạng bất bình đẳng, nguyên tắc tương tự sẽ bị gián đoạn do áp dụng hiệu lực thời gian của án lệ. Hai vụ việc A và B có tình tiết tương tự nhau nhưng xảy ra ở hai thời điểm khác nhau có thể không được giải quyết như nhau. Theo quy định của Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP năm 2015 thì thời điểm có hiệu lực của án lệ là sau 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc được ghi trong quyết định công bố án lệ của Chánh án TANDTC chứ không dựa vào ngày ban hành bản án, quyết định. Mặc dù bản án, quyết định có chứa giải pháp pháp lý mới (chọn làm Dự thảo án lệ) đã công bố theo quy định của Nghị quyết 03/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC nhưng trước ngày công bố để nhằm xác định hiệu lực của án lệ thì các tòa án không được phép áp dụng trong các trường hợp tương tự. Như vậy, nguyên tắc tương tự nhằm bảo đảm sự công bằng bị gián đoạn bởi sự ấn định thời điểm có hiệu lực án lệ của TANDTC. Chẳng hạn, cả hai vụ việc đều có tình tiết tương tự với án lệ nhưng vụ việc A xảy ra trước một ngày so với thời điểm có hiệu lực của án lệ thì tòa án không áp dụng án lệ nhưng vụ việc B xảy ra sau một ngày so với vụ việc A thì tòa án áp dụng án lệ. Điều này không những không thực hiện được nguyên tắc công bằng mà còn dẫn đến tình trạng công lý bị trì hoãn.

2.Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án ở Việt Nam hiện nay

         Thứ nhất, pháp luật nên thay đổi theo hướng quy định mang tính “mềm” hóa nghĩa vụ tuân theo án lệ của Tòa án. Thực tiễn ở các nước common law lẫn các nước civil law không có văn bản pháp luật quy định trực tiếp nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án cũng như không quy định hiệu lực pháp lý của án lệ. Ở các nước Đức, Pháp, Nhật Bản là các nước theo hệ thống luật lục địa, trong đó luật thực định là nguồn cơ bản của luật, không có văn bản quy phạm pháp luật quy định rằng phải xét xử theo án lệ.[7] Ở các nước common law, nghĩa vụ tuân theo án lệ của Tòa án được xác định theo nguyên tắc stare decisis. Trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, do chịu ảnh hưởng từ học thuyết thực chứng pháp lý (legal positivism) nên nguyên tắc bắt buộc tòa án tuân theo án lệ trở nên cứng nhắc. Tuy nhiên, từ nửa sau thế kỷ XX, nghĩa vụ tuân theo án lệ của Tòa án ở các nước common law trở nên mềm dẻo linh hoạt hơn. Chẳng hạn, ở Anh, Tòa tối cao đưa ra tuyên bố (Practice Statement) ngày 26 tháng 7 năm 1966 để bác bỏ án lệ của mình trước đó với hai lý do như sau: “tuân theo các án lệ cứng nhắc có thể duy trì những sự bất công mãi mãi và có thể cản trở sự phát triển thích đáng của pháp luật”. [8] Ở Hoa Kỳ, do chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa pháp luật hiện thực nên Tòa tối cao của Liên bang hoặc các tòa tối cao của bang có thể bác bỏ án lệ của chính mình dễ dàng hơn so với Tòa tối cao của Anh. Pháp luật Việt Nam có thể tham khảo cách quy định về nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án của Trung Quốc. Tại Điều 7 của văn bản Bộ quy định của TANDTC Trung Quốc về hoạt động xét xử các vụ án có giá trị hướng dẫn xét xử năm 2010 quy định về nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án như sau: “Tòa án nhân dân các cấp nên tham khảo và viện dẫn các vụ án có giá trị hướng dẫn xét xử do Tòa án nhân dân tối cao công bố trong quá trình xét xử vụ việc tương tự”.  Nếu pháp luật thay đổi theo hướng quy định này cần sửa đổi các quy định sau:

          Một là, nên sửa khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP : “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau…; trường hợp không áp dụng án lệ thì phải phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Toà án thành: “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nên tham khảo án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau…..; trường hợp giải quyết vụ việc có tình tiết tương tự với án lệ nhưng Thẩm phán, Hội thẩm cho rằng án lệ không hợp lý thì nên phân tích và giải thích lý do trong bản án, quyết định của Toà án”.

          Hai là, nên sửa khoản 3 Điều 9 Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP: “Trường hợp Hội đồng xét xử không áp dụng án lệ và có phân tích, lập luận nêu rõ lý do trong bản án, quyết định thì ngay sau khi tuyên án phải gửi kiến nghị thay thế án lệ về Tòa án nhân dân tối cao” thành: “Trường hợp Hội đồng xét xử không áp dụng án lệ và đã có phân tích, giải thích lý do trong bản án, quyết định thì có thể gửi kiến nghị thay thế hoặc hủy bỏ án lệ về Bộ phận chuyên trách lựa chọn, công bố án lệ của Tòa án nhân dân tối cao”.

         Thứ hai, về cách thức công bố án lệ, pháp luật nên quy định công bố án lệ dưới hình thức bản án, quyết định của tòa án có thể kèm theo phần tóm tắt thay cho hình thức công bố án lệ mẫu như hiện nay nhưng cần phải cải cách viết phần lập luận trong bản án, quyết định. Điều này sẽ tránh được tình trạng sai lệch giữa phần lập luận trong bản án, quyết định gốc (nội dung án lệ) với phần khái quát nội dung của án lệ do Ban biên tập viết. Mặt khác, có thể thống nhất được cách thức xác định yếu tố bắt buộc của án lệ nằm ngay trong bản án, quyết định của tòa án. Phần tóm tắt chỉ giữ vai trò giúp người đọc dễ nắm bắt vấn đề pháp lý và giải pháp pháp lý của án lệ chứ không là cơ sở có giá trị bắt buộc. Tác giả cho rằng, cấu trúc phần tóm tắt nên tập trung vào các nội dung hay các phần sau:

         Phần tiêu đề: Tên của vụ việc được Tòa án giải quyết; Số bản án, quyết định của Tòa án có chứa đựng án lệ; tên và địa chỉ của những người tham gia tố tụng.

         Phần từ khóa: Nêu lên một số từ khóa có liên quan đến án lệ.

        Phần vấn đề pháp lý cần giải quyết: Đây là các vấn đề phát sinh do quy định pháp luật chưa cụ thể hoặc chưa có quy định hoặc có quy định nhưng cứng nhắc hoặc đã có án lệ nhưng án lệ không còn phù hợp.

        Phần giải pháp pháp lý của tòa án: Hướng giải quyết của tòa án đối với vấn đề pháp lý.

        Thứ ba, TANDTC cần nhanh chóng mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng cho các Thẩm phán trong việc xác định tình tiết tương tự. Vấn đề này, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm từ các nước common law. Thực chất xác định tình tiết tương tự cũng chính là việc xác định phạm vi của quy tắc án lệ (yếu tố bắt buộc của án lệ). Đây chính là công việc khó khăn và phức tạp nhất của các thẩm phán ở các nước common law trong hoạt động áp dụng án lệ bởi lẽ phạm vi hay mức độ khái quát của quy tắc án lệ như thế nào là do các Tòa án sau xác định chứ không phải do Tòa án ban hành bản án, quyết định xác định. Nội dung đào tạo kỹ năng xác định tình tiết tương tự cần tập trung vào một số vấn đề sau:

        Một là, đào tạo phương pháp hay cách thức xác định yếu tố bắt buộc của án lệ cho các Thẩm phán, Hội thẩm trực tiếp áp dụng án lệ. Tòa án ở các nước common law xác định yếu tố bắt buộc của án lệ (ratio decidendi) dựa vào các yếu tố sau: (i) tình tiết cơ bản của vụ việc được tòa án xem xét; (ii) lý lẽ dẫn đến quyết định; (iii) quyết định hay kết quả. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, xác định phạm vi của yếu tố bắt buộc của án lệ không phải chỉ dựa vào bản án, quyết định được công bố làm án lệ mà còn thông qua hàng loạt các vụ việc Tòa án áp dụng tương tự về sau.

       Hai là, đào tạo kỹ năng nhận diện các tình tiết cơ bản của vụ việc cho các Thẩm phán, Hội thẩm trực tiếp áp dụng án lệ. Nội dung vụ việc được lựa chọn để công bố làm án lệ có nhiều tình tiết, nếu Tòa án không xác định được tình tiết cơ bản thì sẽ không thể áp dụng án lệ một cách có hiệu quả. Nếu Tòa án dựa vào tình tiết không cơ bản mà phân biệt thì án lệ không được áp dụng dẫn đến tình trạng bất công bởi vụ việc giống nhau nhưng giải quyết khác nhau. Chẳng hạn, TAND Thành phố Cần Thơ giải quyết ban hành bản án số 20/2017/DSPT ngày 24/02/2017 dựa vào tình tiết không cơ bản là “không giao dịch trực tiếp” để không áp dụng số 02 là không hợp lý. Ngược lại, nếu Tòa án bỏ sót tình tiết cơ bản có thể dẫn đến án lệ cứng nhắc và bất hợp lý.

        Thứ tư, pháp luật không nên quy định rõ thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực của án lệ như hiện nay nhằm tránh tình trạng áp dụng án lệ cứng nhắc cũng như công lý bị trì hoãn chỉ vì phụ thuộc vào thời điểm hiệu lực của án lệ. Các tòa án có thể áp dụng án lệ linh hoạt hơn nhằm bảo đảm các vụ việc giống nhau phải được giải quyết như nhau. Mặt khác, cũng tránh được tình trạng các vụ việc giống nhau nhưng giải quyết khác nhau do yếu tố thời gian (thời điểm có hiệu lực của án lệ). Nếu theo khuynh hướng này cần phải bãi bỏ các quy định sau:

        Một là, bãi bỏ quy định thời điểm phát sinh hiệu lực của án lệ khoản 1, Điều 8 của Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP: “Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc được ghi trong quyết định công bố án lệ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao”.

          Hai là, bãi bỏ quy định thời điểm chấm dứt hiệu lực của án lệ, tại Điều 9 của Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP như sau: “Trên cơ sở kết quả biểu quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố việc huỷ bỏ, thay thế án lệ, trong đó xác định rõ thời điểm án lệ bị hủy bỏ, thay thế”.

          Ba là, sửa khoản 4 Điều 9 Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP: “Ngay sau khi nhận được kiến nghị xem xét hủy bỏ, thay thế án lệ theo hướng dẫn tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học nghiên cứu, báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để tổ chức phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc hủy bỏ, thay thế án lệ” thành: “Ngay sau khi nhận được kiến nghị xem xét hủy bỏ, thay thế án lệ từ Bộ phận chuyên trách lựa chọn, công bố án lệ của TANDTC, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để tổ chức phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc hủy bỏ, thay thế án lệ”.

           Bốn là, sửa khoản 5 Điều 9 Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP: “Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp biểu quyết thông qua việc hủy bỏ, thay thế án lệ đối với trường hợp nêu tại khoản 2 và khoản 3 Điều này theo nguyên tắc hướng dẫn tại khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết này thành: “Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết thông qua việc hủy bỏ, thay thế án lệ phải có ít nhất 2/3 tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành”.

          Năm là, bổ sung thêm quy định:Quyết nghị hủy bỏ hoặc thay thế án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao và gửi đến các Tòa án. Đối với trường hợp thay thế án lệ phải được công bố kèm theo bản án, quyết định thay thế án lệ”.

  

 [1] Khoản 2, Điều 266 BLTTDS năm 2015 quy định: “Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về các tình tiết của vụ án, những căn cứ pháp luật, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự”.

[2] Khoản 4, Điều 313 BLTTDS năm 2015: “Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định về kháng cáo, kháng nghị, các tình tiết của vụ án, việc giải quyết, xét xử của tòa án cấp sơ thẩm, những căn cứ pháp luật mà tòa án áp dụng, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giải quyết các vấn đề khác có liên quan”.

[3]Khoản 2, Điều 194 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng, các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về các tình tiết của vụ án, những căn cứ pháp luật, án lệ (nếu có) mà tòa án áp dụng để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề khác có liên quan”.

[4]Khoản 4, Điều 242 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng, các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định về kháng cáo, kháng nghị, các tình tiết của vụ án, việc giải quyết, xét xử của tòa án cấp sơ thẩm, những căn cứ pháp luật, án lệ (nếu có) mà tòa án áp dụng để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giải quyết các vấn đề khác có liên quan

[5] Tại khoản 1, Điều 8 của Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP: “Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc được ghi trong quyết định công bố án lệ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao”.

[6] PGS.TS. Đỗ Văn Đại (2017) “Nhận diện giá trị của các nội dung trong quyết định tạo lập án lệ”, http://anle.toaan.gov.vn.

[7]JICA (2007), “Nghiên cứu chung Việt – Nhật về việc phát triển án lệ tại Việt Nam”, tr. 18.

[8] Practice Statement at [1966] 3 All ER 77.

Đỗ Thanh Trung