Bình luận những quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự trong BLTTDS 2015

BLTTDS 2015 có nhiều sửa đổi, bổ sung về thủ tục giải quyết việc dân sự nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định Hiến pháp năm 2013, cũng như phù hợp pháp luật nội dung và thực tiễn giải quyết việc dân sự của Tòa án. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi tập trung giới thiệu, bình luận một số sửa đổi, bổ sung đó.

1.Về hình thức yêu cầu giải quyết việc dân sự

Điều 362 BLTTDS 2015 giữ nguyên quy định như khoản 1 Điều 312 BLTTDS 2004 về hình thức yêu cầu giải quyết việc dân sự, đó là người yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phải gửi đơn đến Tòa án có thẩm quyền. Tuy nhiên, để phù hợp với Luật Thi hành án dân sự năm 2014 về người có quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự thì khoản 1 Điều 362 BLTTDS năm 2015 bổ sung quy định trong trường hợp Chấp hành viên yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì có quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS 2015.

Về nội dung đơn yêu cầu, thì Điều 362 BLTTDS năm 2015 tiếp tục kế thừa quy định tại Điều 312 BLTTDS năm 2004. Tuy nhiên, Điều 362 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định làm rõ nội dung đơn yêu cầu khi tổ chức yêu cầu là doanh nghiệp, thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhằm phù hợp với quy định tại Điều 44 của Luật Doanh nghiệp năm 2014.

Ngoài ra, với mong muốn hiện đại hóa các hoạt động của Tòa án cũng như bảo đảm mọi người đều tiếp cận công lý một cách thuận lợi thì việc gửi đơn, nhận, xử lý đơn yêu cầu được thực hiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Vì vậy, trong đơn yêu cầu ngoài việc ghi tên, địa chỉ của người yêu cầu như trước đây thì BLTTDS năm 2015 quy định trong đơn yêu cầu ghi rõ số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu để Tòa án thực hiện việc nhận, xử lý đơn yêu cầu bằng phương thức trực tuyến. Đồng thời, để thuận lợi cho người dân thực hiện việc yêu cầu thì TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao TANDTC hướng dẫn về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng.

Về tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn yêu cầu thì khoản 3 Điều 362 BLTTDS năm 2015 giữ nguyên như khoản 3 Điều 312 BLTDTS năm 2004, theo đó, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, ngay khi nộp đơn yêu cầu thì người yêu cầu không thể cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ cho Tòa án được đặc biệt khi trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế cũng như chúng ta đang thiếu hụt các hoạt động trợ giúp pháp lý cho đương sự. Do đó, TANDTC cần có hướng dẫn giống như việc khởi kiện là người yêu cầu gửi kèm theo đơn yêu cầu các tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh họ là người có quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự. Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu giải quyết việc dân sự là có căn cứ và hợp pháp sẽ được bổ sung trong quá trình Tòa án giải quyết việc dân sự.

2.Về thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu

Trước đây, BLTTDS năm 2004 chưa có quy định về thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu dẫn đến Tòa án không có cơ sở pháp lý để thực hiện, tùy tiện trong xử lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự. Chính vì vậy, để tạo nên sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật giải quyết việc dân sự thì Điều 363 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu.

Sau khi nhận đơn yêu cầu, thì Tòa án phải có trách nhiệm xem xét đơn yêu cầu đó có hợp pháp hay không? Nếu đơn yêu cầu không thỏa mãn các điều kiện yêu cầu và hình thức yêu cầu thì Thẩm phán được phân công xử lý như sau:

Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu: Nếu xét thấy đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 BLTTDS năm 2015 thì Thẩm phán thông báo cho người yêu cầu biết. Việc thông báo thực hiện bằng văn bản và nêu rõ những nội dung còn thiếu trong đơn yêu cầu và yêu cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Hết thời hạn 7 ngày mà người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ.

Tiến hành thủ tục thụ lý việc dân sự: Nếu xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán tiến hành thủ tục thụ lý.

Tuy nhiên, Điều 363 BLTTDS năm 2015 chưa quy định về trường hợp chuyển việc dân sự và trả lại đơn yêu cầu cho phù hợp với quy định tại Điều 41 và Điều 364 BLTTDS năm 2015. Thiết nghĩ, TANDTC cần bổ sung thêm 2 trường hợp trả lại đơn yêu cầu và chuyển việc dân sự khi đơn yêu cầu chưa đáp dứng các điều kiện nhất định. Cụ thể:

+ Trả lại đơn yêu cầu cho người yêu cầu nếu việc dân sự thuộc trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 364 BLTTDS năm 2015.

+ Chuyển đơn yêu cầu cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người yêu cầu biết nếu việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác (Việc dân sự thuộc một trong các loại việc quy định tại Điều 27, 29, 31 và 33 BLTTDS năm 2015 nhưng không thuộc thẩm quyền các cấp quy định tại Điều 37, 38 BLTTDS năm 2015 hoặc không thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ quy định tại khoản 2 Điều 39 BLTTDS năm 2015)

3.Về trả lại đơn yêu cầu

Điều 364 BLTTDS năm 2015 bổ sung quy định về việc trả lại đơn yêu cầu nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Thẩm phán khi thấy đơn yêu cầu không thỏa mãn các điều kiện yêu cầu hoặc hình thức yêu cầu thì trả lại đơn yêu cầu cho người yêu cầu đồng thời đương sự có căn cứ khiếu nại việc trả lại đơn khi cho rằng việc trả lại đơn là không có căn cứ. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là, khoản 1 Điều 364 BLTTDS năm 2015 lại không quy định rõ thẩm quyền trả lại đơn yêu cầu thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết đơn yêu cầu mà lại quy định chung chung là Tòa án trả lại đơn yêu cầu. Thiết nghĩ, TANDTC cần hướng dẫn cụ thể điều này nhằm nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán trong việc trả lại đơn yêu cầu.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 364 BLTTDS năm 2015, thì Tòa án trả lại đơn yêu cầu khi có một trong các căn cứ sau đây:

Người yêu cầu không có quyền yêu cầu hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự: Đây là trường hợp người yêu cầu không thuộc các chủ thể có quyền yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 362, 376, 381, 387, 391, 396, 398, 401, 403, 420 BLTTDS năm 2015. Ngoài ra, người yêu cầu không đủ năng lực hành vi dân sự thì Tòa án trả lại đơn yêu cầu.

– Sự việc người yêu cầu đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Đây là trường hợp việc dân sự đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết nên người yêu cầu không có quyền yêu cầu giải quyết lại.

– Việc dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đây là trường hợp việc dân sự không thuộc một trong các loại việc quy định tại Điều 27, 29, 31 và 33 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, điểm c khoản 1 Điều 364 BLTTDS năm 2015 quy định trả lại đơn yêu cầu do việc dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là không phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015. Bởi vì, theo quy định Điều 102 Hiến pháp năm 2013, thì chức năng của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và Tòa án không được từ chối thụ lý giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng (khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015) thì Tòa án phải thụ lý giải quyết các việc dân sự khi việc dân sự đó thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự và không thuộc thẩm quyền giải quyết cơ quan, tổ chức khác. Do đó, căn cứ trả lại đơn yêu cầu trong trường hợp này cần quy định là việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác.

– Người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 363 của Bộ luật này. Đây là trường hợp người yêu cầu đã nhận được thông báo về sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu nhưng họ không tiến hành sửa đổi, bổ sung trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 363 BLTTDS năm 2015.

– Người yêu cầu không nộp lệ phí trong thời hạn quy định tại điểm a khoản 4 Điều 363 của Bộ luật này, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp lệ phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan. Đây là trường hợp Thẩm phán được phân công giải quyết đơn yêu cầu xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý nên đã thông báo người yêu cầu nộp lệ phí đơn yêu cầu nhưng người yêu cầu không nộp lệ phí trong thời hạn quy định tại điểm a khoản 4 Điều 363 BLTTDS năm 2015 mà không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp lệ phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.

– Người yêu cầu rút đơn yêu cầu. Đây là trường hợp người yêu cầu đã nộp đơn yêu cầu cùng các tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, khi Tòa án đang xem xét các điều kiện yêu cầu và chưa thụ lý thì người yêu cầu đã tự nguyện rút lại đơn yêu cầu.

– Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Khoản 2 Điều 364 BLTTDS năm 2015 quy định rõ khi trả lại đơn yêu cầu Tòa án phải gửi văn bản nêu rõ lí do vì sao trả lại đơn yêu cầu. Nếu người yêu cầu không đồng ý với việc trả lại đơn thì có thể khiếu nại với Chánh án Tòa án nộp đơn yêu cầu. Trình tự, thủ tục khiếu nại được thực hiện như đối với khiếu nại trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự.

4.Về thông báo thụ lý đơn yêu cầu

Trước đây, BLTTDS năm 2004 chưa có quy định về thông báo thụ lý đơn yêu cầu. Điều này dẫn đến tình trạng các đương sự không biết yêu cầu của mình đã được Tòa án thụ lý hay chưa để chuẩn bị tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như Viện kiểm sát khó thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động thụ lý việc dân sự. Vì vậy, Điều 365 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về thông báo thụ lý đơn yêu cầu. Theo đó, sau khi đã thụ lý vụ án thì Tòa án có trách nhiệm thông báo việc thụ lý bằng văn bản cho người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự. Thời hạn thông báo là 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu. Hình thức thông báo thụ lý đơn yêu cầu bằng văn bản. Văn bản thông báo có đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 365 BLTTDS năm 2015.

Tuy nhiên, khoản 1 Điều 365 BLTTDS năm 2015 lại không quy định rõ thẩm quyền thông báo thụ lý đơn yêu cầu thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết đơn yêu cầu mà lại quy định chung chung là Tòa án thông báo thụ lý đơn yêu cầu. Thiết nghĩ TANDTC cần hướng dẫn cụ thể điều này nhằm nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán trong việc thông báo thụ lý đơn yêu cầu.

5.Về chuẩn bị xét đơn yêu cầu

Nhằm đảm bảo cho việc giải quyết việc dân sự được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, tránh tình trạng các Thẩm phán kéo dài thời hạn giải quyết việc dân sự, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thì BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về chuẩn bị xét đơn yêu cầu. Theo đó, thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu, trừ trường hợp BLTTDS có quy định khác.

Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, theo khoản 2 Điều 366 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án ra một trong các quyết định sau:

– Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ kèm theo nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu;

– Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.

Tuy nhiên, trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu Tòa án có thể ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu trong các trường hợp khác không? Hoặc Tòa án có thể ra quyết định tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu không? Về vấn đề này, căn cứ Điều 361 BLTTDS năm 2015 TANDTC cần có hướng dẫn việc ra quyết định đình chỉ xét đơn yêu cầu, tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu Toà án áp dụng những quy định về việc đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự để thực hiện.

Nếu Tòa án ra quyết định mở phiên họp thì Tòa án phải gửi ngay quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự và hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát nghiên cứu tham gia phiên họp. Thời hạn để Viện kiểm sát nghiên cứu là trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ. Hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Đồng thời, Tòa án phải mở phiên họp để giải quyết việc dân sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp.

Tuy nhiên, cũng giống như trường hợp trả lại đơn yêu cầu và thông báo thụ lý đơn yêu cầu, khoản 2 Điều 366 BLTTDS năm 2015 không quy định rõ thẩm quyền thực hiện các công việc trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu và ra các quyết định thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết đơn yêu cầu mà lại quy định chung chung là Tòa án.

Ngoài ra, Điều 366 BLTTDS năm 2015 chưa quy định về nội dung quyết định mở phiên họp. Điều này dẫn đến đương sự muốn thực hiện quyền thay đổi Thẩm phán, kiểm sát viên, thư ký phiên họp trước khi mở phiên họp cũng không thực hiện được bởi không biết nội dung quyết định mở phiên họp. Do đó, căn cứ vào Điều 361 BLTTDS năm 2015 TANDTC cần hướng dẫn quyết định mở phiên họp được thực hiện theo quy định tại Điều 220 BLTTDS năm 2015.

6.Những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự

Do việc dân sự chỉ do một Thẩm phán giải quyết trừ một số trường hợp đặc biệt nên để đảm bảo việc giải quyết việc dân sự khách quan, đúng pháp luật, tránh sự lạm quyền của Thẩm phán thì BLTTDS năm 2015 tiếp tục quy định kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 312 BLTTDS năm 2004 quy định trong trường hợp kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp. Quy định này chưa hợp lý bởi lẽ phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành nhằm giải quyết yêu cầu của các đương sự – những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc dân sự. Trong khi đó, Viện kiểm sát người không có lợi ích nào liên quan đến việc dân sự tham gia phiên họp chỉ để kiểm sát việc tuân theo pháp luật mà sự vắng mặt của họ lại quyết định đến việc hoãn phiên họp là không công bằng với những người có liên quan đến yêu cầu giải quyết việc dân sự. Vì vậy, khoản 1 Điều 367 BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi quy định về việc hoãn phiên họp trong trường hợp vắng mặt Kiểm sát viên như sau: trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.

Nhằm đảm bảo quyền tham gia phiên họp của người yêu cầu nên khoản 2 Điều 367 BLTTDS năm 2015 đã quy định người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án hoãn phiên họp, trừ trường hợp người yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ. Điều này có nghĩa là, nếu người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất dù có hay không có lý do chính đáng đều phải hoãn phiên họp, trừ trường hợp người yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ chứ không phải như khoản 3 Điều 313 BLTTDS năm 2004 là chỉ khi người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng mới hoãn phiên họp. Còn đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì khoản 3 Điều 367 BLTTDS năm 2015 vẫn tiếp tục kế thừa quy định tại khoản 4 Điều 313 BLTTDS năm 2004.

Có thể thấy, các quy định về việc những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự và việc hoãn phiên họp hay vẫn tiến hành họp trong BLTTDS năm 2015 được quy định theo hướng đảm bảo phiên họp không bị hoãn nhiều lần và nhanh chóng giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, các quy định này chưa giải quyết được một số vấn đề sau:

– Người yêu cầu vắng mặt tại phiên họp nhưng người đại diện của họ có mặt tại phiên họp thì Tòa án có hoãn phiên họp không hay vẫn giải quyết việc dân sự vắng mặt họ.

– Người yêu cầu và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều là các đương sự trong việc dân sự. Nhưng người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án sẽ hoãn phiên họp còn người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ nhất có lí do chính đáng thì vẫn có thể tiến hành họp. Điều này là không đảm bảo sự bình đẳng về quyền tham gia phiên họp giữa các đương sự trong việc dân sự.

– Nếu phiên họp có sự tham gia của người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng những người này lại vắng mặt khi được Tòa án triệu tập hợp lệ thì Tòa án có hoãn phiên họp không hay vẫn giải quyết việc dân sự vắng mặt họ.

Trong các trường hợp này, Tòa án áp dụng Điều 361 BLTTDS năm 2015 để vận dụng các quy định về việc hoãn phiên tòa để giải quyết. Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc giải quyết việc dân sự thì TANDTC cần có những hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

 

TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ (Trường Đại học Luật Hà Nội)