Bàn về thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải

Trong tố tụng dân sự, thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của đương sự, đặc biệt là quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Trong phạm vi bài viết này, tác giả bàn về thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để bảo đảm quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đưa ra kiến nghị, đề xuất hướng dẫn.
  1. Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

Khoản 2 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 có quy định các nhiệm vụ, quyền hạn mà Thẩm phán thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cụ thể như sau:

“2. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

  1. a) Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này;
  2. b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;
  3. c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
  4. d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;

đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;

  1. e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
  2. g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;
  3. h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này.”

Tuy nhiên, khoản này cũng không quy định Thẩm phán phải thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào thời điểm cụ thể nào. Quy định này bảo đảm cho sự linh hoạt của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án.

Điều 208[1] BLTTDS 2015 quy định về “Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải” cũng chỉ quy định trình tự, thủ tục, đối tượng, thời gian, địa điểm, phương pháp thực hiện… phiên họp mà không quy định thời điểm cụ thể mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào lúc nào, với trình tự nào, cụ thể là sau khi ghi lời khai của các đương sự hay sau khi thẩm định định giá tài sản hoặc sau khi giám định hay sau khi đương sự đã xuất trình và Tòa án đã thu thập chứng cứ.

Nhằm tăng cường công tác hòa giải tại Tòa án nhân dân, TANDTC đã ban hành Hướng dẫn quy trình, kỹ năng hòa giải vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (Ban hành kèm theo Chỉ thị số 04/CT-CA ngày 03-10-2017 của Chánh án TANDTC) hướng dẫn khá chi tiết về chuẩn bị hòa giải, từ việc lập, nghiên cứu hồ sơ đến các công việc Thẩm phán phải thực hiện; phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; kết thúc hòa giải. Tuy nhiên, Hướng dẫn này cũng không hướng dẫn cụ thể phiên họp được tổ chức vào thời điểm nào.

  1. Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn được quy định tại Điều 200 BLTTDS 2015, cụ thể:

“Điều 200. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn

  1. Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
  2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
  3. a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
  4. b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
  5. c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
  6. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.”

Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quy định Điều 201 của BLTTDS 2015, cụ thể:

“Điều 201. Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

  1. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:
  2. a) Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
  3. b) Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
  4. c) Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
  5. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.”

Theo các quy định trên thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Như vậy, nếu so sánh các quy định về quyền yêu cầu phải tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của BLTTDS 2015 với BLTTDS 2004, thì thời hạn bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập theo quy định của BLTTDS 2015 ngắn hơn so với quy định của BLTTDS 2004 (Theo quy định tại Điều 176[2], Điều 177[3] của BLTTDS 2004 thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử).

  1. Thực tiễn áp dụng pháp luật

Có thể thấy, với việc quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải trong BLTTDS 2015, nhà làm luật có dụng ý hạn chế việc bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan lợi dụng quyền của mình nhằm kéo dài việc giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, khi áp dụng các quy định này của BLTTDS 2015 đã có những bất cập, gây khó khăn, thậm chí cản trở việc thực hiện quyền phản tố, quyền yêu cầu độc lập của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Một số Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự đã lợi dụng sự quy định không cụ thể để hạn chế việc thực hiện quyền phản tố, quyền yêu cầu độc lập của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhằm đơn giản hóa vụ án đang giải quyết[4].

Chính các quy định và hướng dẫn không cụ thể về thời điểm mở phiên họp như nêu ở trên, dẫn đến tình trạng một số Thẩm phán lợi dụng quy định không rõ ràng, cụ thể này để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải sớm (ngay sau khi đã ghi lời khai của các đương sự tham gia vụ kiện) nhằm chấm dứt quyền yêu cầu phản tố, quyền yêu cầu độc lập của đương sự. Đồng thời, Thẩm phán cũng không giải thích quyền yêu cầu phản tố, quyền yêu cầu độc lập như thế nào, thời điểm yêu cầu và thời điểm chấm dứt việc yêu cầu, vì không có quy định bắt buộc, mục đích là nhằm đơn giản hóa thủ tục giải quyết vụ án để giải quyết vụ án nhanh hơn, đỡ mất thời gian, đỡ vất vả mà lại hiệu quả (hạn chế việc sửa, hủy án)[5].

Bên cạnh đó, Điều 208 BLTTDS 2015 cũng không quy định hạn chế số lần mở phiên họp kiểm tra, giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, do đó, được hiểu là ít nhất phải mở phiên họp một lần, còn mở nhiều lần hay không là do Thẩm phán quyết định căn cứ vào nội dung, tính chất của vụ án.

Như vậy, cho dù có mở phiên họp kiểm tra, giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải một lần hay nhiều lần thì trước thời điểm mở phiên họp lần đầu, bị đơn đã phải thực hiện quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi liên quan đã phải thực hiện quyền đưa ra yêu cầu độc lập. Nếu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện các quyền này, khi phiên họp lần đầu được mở ra thì yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ không được Thẩm phán chấp nhận. Và như vậy, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đành phải chấp nhận mất quyền phản tố, quyền yêu cầu độc lập. Đây là một trong những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.

  1. Kiến nghị, đề xuất hướng dẫn

Về mặt khoa học pháp lý, nhằm bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự, bảo đảm việc hòa giải có hiệu quả cao, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải chỉ được tiến hành khi Thẩm phán đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong giai đoạn chuẩn bị xét xử được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản 2 Điều 203  của BLTTDS bao gồm: Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của BLTTDS; xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác; xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng; làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án; xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTDS; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của BLTTDS. Bởi lẽ, tài liệu, chứng cứ càng đầy đủ thì việc hòa giải càng đạt hiệu quả cao.

Do đó, để bảo đảm quyền lợi của các đương sự, bảo đảm việc giải quyết các tranh chấp trong nhân dân nhanh chóng, triệt để, đúng pháp luật rất cần có hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC để các Tòa án áp dụng thống nhất về thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Từ vướng mắc, bất cập trong thực tiễn nêu trên, để bảo đảm quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo tác giả đề xuất hướng dẫn về thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cụ thể như sau: Sau khi thụ lý hồ sơ, Thẩm phán phải thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản 2 Điều 203  của BLTTDS, sau đó tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

[1] Điều 208 BLTTDS 2015 quy định:

“Điều 208. Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

  1. Thẩm phán tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự. Trước khi tiến hành phiên họp, Thẩm phán phải thông báo cho đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp.
  2. Trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.
  3. Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.

Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của  con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên.”

[2] Điều 176 BLTTDS 2004 quy định:

“Điều 176. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn

  1. Cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
  2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
  3. a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
  4. b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
  5. c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
  6. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.”

[3] Điều 177. Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

  1. Trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:
  2. a) Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
  3. b) Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
  4. c) Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
  5. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.

[4] Trần Quang Minh – Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Tạp chí Tòa án nhân dân số 18/2017, trang 37).

[5]Trần Quang Minh – Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Tạp chí Tòa án nhân dân số 18/2017, trang 37).

HOÀNG THỊ NGUYỆT NGA Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương, NGUYỄN THỊ HỒNG MÂY Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên