Trưởng thôn bán đất thôn chi việc của thôn, phạm tội gì?

Bí thư Chi bộ thôn, Trưởng thôn và Kế toán của thôn bán đất xen kẹt trong thôn lấy tiền chi trả tiền xây dựng nhà văn hóa và đường giao thông trong thôn. Hành vi đó phạm tội gì?

Nội dung vụ án

Vào đầu năm 2007, ông Nguyễn Văn H là bí thư chi bộ thôn. Ông H đã bàn và được ban chi ủy của chi bộ thôn thống nhất về chủ trương giao cho ban quản lý thôn bán đất ở các khu “xen kẹp ” chưa sử dụng như ở khu Trạm điện của thôn, ở gần đường giao thông 282 … để lấy tiền chi trả cho khoản nợ xây dựng nhà văn hóa thôn, đường giao thông của thôn (tuyến 1), kênh G8B và các hoạt động khác của thôn.

Ngày 03/02/2017 ông H chủ trì cuộc họp chi bộ đã đưa ra ý kiến của chi ủy về việc bán đất xen kẹp này để chi bộ thảo luận và chi bộ đồng tình thực hiện.

Tháng 4/2007, ông Biện Văn T được bầu làm trưởng thôn, trong thời gian từ khoảng đầu năm 2008 đến đầu năm 2011, ông T đã cùng ông Nguyễn Văn Q là kế toán của thôn thực hiện việc bán đất, thu tiền theo chủ trương của chi bộ thôn. Kết quả là đã bán đất cho 7 người với tổng diện tích đất là 1.459,2 m2 đất, đã thu 1.582.340.000 đồng. Số tiền này ông T đã nộp cho UBND xã 346.400.000 đồng và 180.000.000 đồng ông T nhờ kế toán của xã thu tiền mua đất của một người. Số tiền còn lại, ông T đã sử dụng vào việc công ích của thôn. Việc tiền bán đất và chi tiền xây dựng việc công ích của thôn có giấy tờ xác thực.

Đất mà ông T và hai đồng phạm đã bán là đất mà UBND huyện T đã quy hoạch là đất ở nông thôn theo Quyết định số 118 ngày 10/07/2006 và Quyết định số 549 ngày 18/06/2014.

Trước khi bán đất, ông T và các đồng phạm không có văn bản báo cáo Đảng ủy và UBND xã.

Hành vi của ông T, ông Q và ông H bị kết luận phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thì hành công vụ ” theo khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây viết là BLHS năm 1999). Hình phạt của bản án sơ thẩm đối với người phạm tội như sau: ông T 06 (sáu) năm tù, ông Q 05 (năm) năm tù, ông H 03 (ba) năm tù.

Ý kiến khác nhau về tội danh

Sau khi kết thúc phiên tòa xét xử, đã có ý kiến khác nhau về xác định tội danh đối với người bị kết án.

Ý kiến thứ nhất : Đồng tình với bản án xác định tội danh đối với người bị kết án là “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ”, theo quy định tại Điều 281 BLHS năm 1999.

Ý kiến thứ hai : Không đồng tình bản án và cho rằng các bị cáo phạm tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai ” theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 1999 mới đúng. Trước đó, địa phương cũng đã có bản án hình sự xét xử các bị cáo là người có chức vụ ở thôn có hành vi vi phạm là 05 lần bán đất, cho thuê đất ao với tổng diện tích là 53.225 m2 đất, lấy tiền xây công trình cho thôn trong các năm 2011, năm 2012, bản án xử các bị cáo phạm tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.

Ý kiến tác giả: Chúng tôi đồng tình với ý kiến thứ hai là hành vi vi phạm của các ông T, Q, H đã phạm tội“ Vi phạm các quy định về quản lý đất đai ” theo Điều 174 BLHS 1999, vì các lý do sau đây :

Một là : Về mặt pháp luật Điều 174 BLHS năm 1999 quy định :

“1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm

a, Đã bị xử lý về hành vi này mà còn vi phạm

b, Đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn

c, Gây hậu quả nghiêm trọng ”

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm :a, Có tổ chức…”

Hai là : Về hành vi vi phạm mà các ông Biện Văn T, Nguyễn Văn Q và Nguyễn Văn H đã thực hiện là  đã bán 1.459,2 m2 đất và thu tiền mà đất đó đã có Quyết định quy hoạch của UBND huyện  và đất đó không phải là đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của các ông T, ông Q và ông H.

Căn cứ vào quy định tại Điều 174 BLHS năm 1999 và các hành vi vi phạm mà  ông T, ông Q và ông H đã thực hiện thì thấy rằng: Họ là  người có chức vụ ở thôn, đã có hành vi bán đất, đất đã có Quyết định quy hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó đã đề nghị cơ quan nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những người mua đất. Hành vi bán đất thuộc sở hữu toàn dân lấy tiền sử dụng vào việc chung công ích cho thôn và đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người mua đất của các ông T, ông Q và ông H thực chất là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn giao đất thu tiền trái pháp luật và có đủ các dấu hiệu cấu thành tội: “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai ” được quy định tại Điều 174 BLHS năm 1999.

Mời bạn đọc trao đổi ý kiến.

Ảnh minh họa, đường nông thôn mới – Ảnh PV

ĐỖ VĂN CHỈNH