Các đối tượng lừa đảo qua mạng phải chịu TNHS về toàn bộ số tiền chiếm đoạt được từ hành vi lừa đảo

Sau khi nghiên cứu bài viết “Xác định khung hình phạt đối với hành vi lừa đảo qua mạng” của tác giả Phan Thị Lan đăng ngày 30/07/2024, tôi đồng ý với quan điểm thứ hai.

Căn cứ tại tiểu mục 2, Phần II Thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng như sau: “2. Trong trường hợp có đầy đủ cằn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.

Trở lại với tình huống pháp lý, các đối tượng Nguyễn Văn T, Bùi Ngọc V, Lê Trung D, Trần Văn Đ và Đỗ Quốc H đã có sự bàn bạc trước về việc sẽ thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng cách đăng tin bán xe máy giả giá rẻ qua mạng. Các đối tượng có sự chuẩn bị về công cụ, phương tiện phạm tội đó là: mua Sim điện thoại và lập cho mình một tài khoản Zalo riêng, rủ nhau mua chung một tài khoản Ngân hàng Vietcombank mang tên Nguyễn Văn Th để chuyển tiền và một tài khoản Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) mang tên Nguyễn Văn N để rút tiền.

Các đối tượng cũng đã khai nhận số tiền lừa đảo được đều yêu cầu bị hại chuyển vào tài khoản Ngân hàng Nguyễn Văn Th. Theo sao kê giao dịch từ ngày 26/11/2020 đến ngày 29/01/2021 thì số tiền đã chuyển vào tài khoản này là 898.150.000 đồng. Như vậy, có đầy đủ căn cứ để chứng minh được rằng toàn bộ số tiền 898.150.000 đồng theo sao kê giao dịch từ ngày 26/11/2020 đến ngày 29/01/2021 của tài khoản Ngân hàng Nguyễn Văn Th đều là số tiền các đối tượng có được bằng hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Như vậy, có thể chứng minh rằng các đối tượng trên đều có động cơ, mục đích, ý định chiếm đoạt tiền bằng hành vi lừa đảo và trên thực tế đã chiếm đoạt được tổng số tiền 898.150.000 đồng. Mặc dù Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thực hiện các thủ tục thông báo tìm bị hại theo quy định của pháp luật nhưng chỉ đủ cơ sở xác định được 03 bị hại với tổng số tiền xác định được bị hại là 76.000.000 đồng tuy nhiên theo tinh thần của tiểu mục 2, Phần II Thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì phải truy cứu TNHS đối với giá trị tài sản có được từ hành vi phạm tội. Do đó, các đối tượng trên phải bị truy cứu TNHS theo khoản 4 Điều 174 BLHS với tổng số tiền là 898.150.000 đồng.

Trên đây là quan điểm trao đổi của tác giả, kính mong được sự đóng góp của quý đồng nghiệp và bạn đọc.

PHẠM CAO SƠN (Tòa án quân sự khu vực Quân chủng Hải quân)

Tòa án nhân dân Tp Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế  xét xử vụ án hình sự -Ảnh: Lê Thị Vân