Có cơ sở chứng minh Nguyễn Tấn Th đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”

Sau khi nghiên cứu bài viết của các tác giả NGUYỄN THỊ THU HIẾU, đăng ngày 19/7/2024 đặt vấn đề Nguyễn Tấn Th có phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” không? Theo quan điểm của tác giả đồng tình với quan điểm 1 Nguyễn Tấn Th đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 của BLHS.

Thứ nhất, có cơ sở chứng minh Nguyễn Tấn Th tuy không hứa hẹn trước mà biết rõ xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen, biển số 79C1-609.XX do người tên S trộm cắp mà có vì Th đã đồng ý cất giấu xe mô tô để tiêu thụ. Mặc dù hành vi trộm cắp chỉ kết luận thông qua lời khai của bị cáo nhưng lời khai này phù hợp với lời khai chị L về việc bị mất trộm chiếc xe. Mặc khác, xe moto là tài sản bắt buộc phải đăng ký nên Th buộc phải biết việc S chiếm giữ tài sản là bất hợp pháp. Do vậy hành vi của Nguyễn Văn Th đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 của BLHS là có sở.

Thứ hai, căn cứ theo nội dung giải đáp thắc mắc tại Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao đã giải đáp về trường hợp “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” như sau:

Theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30-11-2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hi lộ...) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua); 2. “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có ” là có cần cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.

Như vậy, theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn nêu trên thì mặt chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn Th đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 của BLHS mà không phụ thuộc vào việc xử lý hình sự đối với hành vi của S.

Do vậy, có đủ cơ sở để xử lý Nguyễn Văn Th về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 Bộ luật hình sự.

Trên đây là quan điểm của tác giả trao đổi về vụ án rất mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc.

 

NGUYỄN NGỌC HOÀNG (Tòa án Quân sự Quân khu 7)

Tòa án nhân dân tỉnh Đắc Lăk xét xử vụ án hình sự - Ảnh: Thanh Tùng