Cần thiết bổ sung chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại đối với tội mua bán người trong Bộ luật Hình sự năm 2015

Bài viết tập trung phân tích quy định về tội mua bán người và điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại; đồng thời phân tích tình hình phạm tội mua bán người; từ đó cho thấy sự cần thiết bổ sung chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại đối với mua bán người trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Đặt vấn đề

Tội mua bán người là một trong những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do, nhân phẩm và trật tự an toàn xã hội. Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS năm 2015), đã có những quy định tiến bộ về tội mua bán người (Điều 150) và tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151).

Trong những năm qua, tội phạm mua bán người diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng về quy mô, tính chất và thủ đoạn. Theo Báo cáo thường niên của Bộ Công an, từ năm 2018 đến 2022, trung bình mỗi năm phát hiện khoảng 150–200 vụ án mua bán người với hàng trăm nạn nhân, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em[1]. Việt Nam đã là thành viên của Nghị định thư Palermo năm 2000 về chống mua bán người[2], đồng thời ban hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, năm 2024 (sửa đổi, bổ sung năm 2025)[3] . BLHS năm 2015 tiếp tục ghi nhận tội mua bán người tại Điều 150 với những sửa đổi, bổ sung bảo đảm sự phù hợp với tình hình đấu tranh tội phạm trong giai đoạn hiện nay, thể hiện quyết tâm chính trị trong bảo vệ quyền con người.

Tuy nhiên, về chủ thể của tội phạm này hiện nay Bộ luật mới chỉ ghi nhận là cá nhân mà chưa có pháp nhân thương mại[4]. Trong thực tiễn, nhiều vụ án mua bán người không chỉ do cá nhân thực hiện mà còn núp bóng dưới hình thức doanh nghiệp dịch vụ việc làm, công ty môi giới hôn nhân, tổ chức du lịch… Tuy nhiên, do chưa có quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội này, do đó, thực trạng này chưa được ngăn chặn một cách hiệu quả. Điều này đặt ra yêu cầu nghiên cứu bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội mua bán người.

2. Quy định của pháp luật về tội mua bán người

Khoản 1 Điều 150 BLHS năm 2015 quy định:

“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.”.

Như vậy, Điều luật không đưa ra khái niệm thế nào là tội mua bán người mà chỉ nêu các dấu hiệu mô tả hành vi phạm tội của loại tội phạm này.

Tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự (Nghị quyết số 02/2019) quy định về một số tình tiết định tội có nêu khái niệm tội mua bán người như sau:

“Mua bán người là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây:

a) Chuyển giao người để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

b) Tiếp nhận người để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

c) Chuyển giao người để người khác bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

d) Tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

đ) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao người theo hướng dẫn tại điểm a và điểm c khoản này.”.

Như vậy, với việc ghi nhận tại điều khoản nêu trên giúp việc nhận định, đánh giá, kết luận về tội mua bán người trong thực tiễn áp dụng pháp luật được cụ thể, rõ ràng hơn.

Tại khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) cũng nêu khái niệm về mua bán người như sau:

“Mua bán người là hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể người hoặc nhằm mục đích vô nhân đạo khác bằng cách dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác.”.

Về cơ bản, khái niệm này được xây dựng bảo đảm sự thống nhất với quy định của BLHS năm 2015.

Về hình phạt đối với tội danh này, BLHS quy định tùy theo tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà người mua bán người mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng với các khung hình phạt được quy định tại Điều 150. Trong đó mức án cao nhất là phạt tù đến 20 năm.

Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

3. Quy định về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

- Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;

- Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;

- Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;

- Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.

Như vậy, BLHS đặt ra các điều kiện để xác định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại và đòi hỏi, phải có đủ 04 điều kiện nói trên trong xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

Như vậy, có thể thấy, pháp nhân thương mại bao giờ cũng phải chịu trách nhiệm hình sự thông qua hành vi phạm tội của thể nhân. Thể nhân đó có thể là người làm công, đại lý hoặc bất kỳ nhân viên nào của pháp nhân thương mại; có thể là người lãnh đạo, quản lý, điều hành (nhân viên cao cấp) của pháp nhân thương mại. Những người này đã thực hiện hành vi cấu thành tội phạm theo pháp luật hình sự của quốc gia. Không có hành vi của thể nhân thì không có trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

Để xác định chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại, giữa pháp nhân thương mại và thể nhân bao giờ cũng tồn tại mối quan hệ ràng buộc nhất định. Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của thể nhân khi người đó thực hiện hành vi nhân danh tổ chức, thay mặt hoặc đại diện cho pháp nhân thương mại. Đồng thời thể nhân đó thực hiện hành vi trong phạm vi chức năng, thẩm quyền và nhiệm vụ được pháp nhân thương mại giao.

Để xác định chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại, thì hành vi phạm tội do thể nhân thực hiện phải vì quyền lợi, lợi ích của pháp nhân thương mại đó. Nếu không chứng minh được hành vi phạm tội mà thể nhân đã thực hiện là vì lợi ích của pháp nhân thương mại, thì pháp nhân thương mại đương nhiên không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội đó do thể nhân thực hiện. Thể nhân đó khi thực hiện hành vi phạm tội là do được sự nhất trí của lãnh đạo, chỉ đạo, đồng ý của pháp nhân thương mại thì lúc này, pháp nhân thương mại mới phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội do thể nhân thực hiện.

Ngoài ra, cần điều kiện nữa là chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS.

4. Thực tiễn tội phạm mua bán người và kiến nghị bổ sung chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại đối với mua bán người trong Bộ luật Hình sự năm 2015

Thời gian qua, tình hình tội phạm mua bán người vẫn không ngừng gia tăng với tính chất và thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp, khiến các cơ quan có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Thực tiễn cho thấy, việc xuất hiện thực trạng các công ty môi giới xuất khẩu lao động đưa người ra nước ngoài dưới dạng hợp pháp nhưng thực chất bóc lột sức lao động, cưỡng bức, tước hộ chiếu[5]. Hay một số tổ chức du lịch trá hình đưa phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài để bán dâm hoặc kết hôn cưỡng ép. Hoặc một số doanh nghiệp trong nước cấu kết với đối tượng nước ngoài lập đường dây buôn người…. Đây là thực trạng rất đáng báo động bởi tính chất nguy hiểm và mức độ nghiêm trọng mà nó gây ra.

Bởi lẽ, việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật nêu trên có chủ thể thực hiện là pháp nhân thương mại thường có quy mô lớn, đối với nhiều bị hại, thù đoạn tinh vi và có yếu tố xuyên biên giới. Hành vi phạm tội do chủ thể này thực hiện gây hậu quả xấu cho xã hội với mức độ rất nghiêm trọng nghiêm trọng: vi phạm nhân quyền, làm xấu hình ảnh quốc gia, ảnh hưởng trật tự an ninh. Do đó, nếu chỉ ghi nhận chủ thể của tội mua bán người là cá nhân, thì trong rất nhiều trường hợp bỏ lọt chủ thể thực sự thực hiện các hành vi mua bán người là pháp nhân thương mại, từ đó chưa bảo đảm tính răn đe của các chế tài hình sự, cũng như chưa bảo đảm yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người.

Như đã phân tích ở phần trên về các điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, tác giả cho rằng, nếu chứng minh được đủ 04 điều kiện quy định tại Điều 75 BLHS năm 2015, thì có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội mua bán người. Tuy nhiên, để bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ trong truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, tác giả xin nêu đề xuất như sau:

Thứ nhất, để có cơ sở lý luận và thực tiễn một cách đầy đủ khi tiến hành sửa đổi, bổ sung BLHS trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền cần tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện tội phạm của pháp nhân thương mại nói chung, đánh giá việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tội mua bán người có liên quan đến pháp nhân thương mại nói riêng. Từ đó, cho thấy sự cần thiết của việc bổ sung chủ thể tội phạm tội mua bán người là pháp nhân thương mại.

Thứ hai, khi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015, nhà làm luật cần bổ sung quy định tại Điều 76 về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại bao gồm tội phạm quy định tại Điều 150, 151. Đồng thời, tại các điều 150, 151 cần bổ sung thêm 01 khoản độc lập quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

Thứ ba, về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội mua bán người, tác giả kiến nghị cần quy định mức cao hơn chủ thể thực hiện tội phạm là cá nhân. Điều này phù hợp với tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại, đồng thời bảo đảm tính thống nhất với tổng thể chung của BLHS và nguyên tắc cơ bản truy cứu trách nhiệm hình sự của BLHS.  

5. Kết luận

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, pháp nhân thương mại có thể trở thành công cụ để che giấu, tổ chức hành vi mua bán người. BLHS 2015 đã tạo nền tảng cho chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại nhưng phạm vi áp dụng còn hạn chế. Việc mở rộng trách nhiệm hình sự của PNTM đối với tội mua bán người là cần thiết nhằm đảm bảo tính răn đe, phù hợp với chuẩn mực quốc tế, đồng thời nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia.

 

[1] Bộ Công an (2022), Báo cáo tổng kết 5 năm công tác phòng, chống tội phạm mua bán người (2018–2022), Hà Nội.

[2] Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nhằm ngăn ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (Palermo Protocol).

[3] Luật này có hiệu lực thi hành từ 01/7/2025.

[4] Xem Điều 76 BLHS năm 2015.

NGA PHẠM (TANDTC)

Ảnh: nguồn Internet

Tài liệu tham khảo

1. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2. Liên hợp quốc (2000), Protocol to Prevent, Suppress and Punish Trafficking in Persons, Especially Women and Children (Palermo Protocol).

3. Bộ Công an (2023), Báo cáo tình hình tội phạm mua bán người giai đoạn 2018–2022.

4. Nguyễn Ngọc Hòa, Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10 năm 2022.

5. Trần Văn Độ, Một số vấn đề về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo Bộ luật Hình sự 2015, Tạp chí Kiểm sát, số 5 năm 2018.