Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng khi giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân

Bài viết này, tác giả tập trung phân tích quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự cả cá nhân trên tiêu chí phân loại dựa trên khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của những người đã đủ 18 tuổi hay là người đã thành niên.

Đặt vấn đề

Trong quan hệ pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự là một bộ phận cấu thành của năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân xuất hiện từ khi người đó được sinh ra, pháp luật đã quy định cho họ có được các quyền và nghĩa vụ dân sự. Nhưng khả năng để thực hiện những quyền và gánh vác những nghĩa vụ này không phát sinh đồng thời với thời điểm họ được sinh ra.

Để tự mình thực hiện được các quyền và nghĩa vụ dân sự của bản thân, cá nhân phải có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi mà cá nhân xác lập trong các quan hệ pháp luật dân sự. Điều 19 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Không những bản thân cá nhân đó thực hiện quyền lợi của mình mà còn đảm bảo quyền và lợi ích của những cá nhân khác trong quan hệ dân sự. Do vậy, khả năng tự mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự chính là năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp các cá nhân đều có thể thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của mình.

Sự phân biệt về khả năng nhận thức của mỗi cá nhân, năng lực hành vi dân sự của cá nhân được chia thành các mức độ khác nhau giữa những cá nhân khác nhau. BLDS năm 2015 đưa ra cách phân biệt năng lực hành vi của những cá nhân khác nhau chủ yếu dựa vào độ tuổi (phân chia thành người thành niên và người chưa thành niên). Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên, nếu là người phát triển bình thường về thể chất, tâm thần thì họ là người có năng lực hành vi đầy đủ. Đối với người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Những giao dịch dân sự do người chưa thành niên thực hiện phải tuân thủ các quy định của Điều 21 BLDS năm 2015. Người trên 18 tuổi do khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mỗi người khác nhau nên khả năng để thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự cũng khác nhau.

Trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân cũng được quy định như năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định của BLDS. Thực tế khi giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân trong một số trường hợp, thì vấn đề xác định năng lực hành vi dân sự của những người trên 18 tuổi để đưa họ vào tham gia tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, chưa có hướng dẫn cụ thể nên việc áp dụng chưa thống nhất.

1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định của BLDS 2015

Người thành niên là người đã đủ 18 tuổi, khi đạt độ tuổi này cá nhân bằng hành vi của mình được toàn quyền xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự ; tuy nhiên, không phải bất cứ ai cũng có thể tự mình thực hiện được các quyền và nghĩa vụ dân sự. BLDS 2015 đã căn cứ vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi để phân biệt thành 03 trường hợp: người mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi; người hạn chế năng lực hành vi.

1.1. Người mất năng lực hành vi dân sự

Điều 22 BLDS: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”.

Quy định này đưa ra căn cứ để suy đoán pháp lý về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân trên thực tế. Một cá nhân bị xác định mất năng lực hành vi khi: Mắc bệnh liên quan đến tâm thần (bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình); Có yêu cầu (theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức); Có kết luận của tổ chức giám định về tình trạng bệnh của bệnh nhân; Có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần).

Khi cá nhân được xác định mất năng lực hành vi, hậu quả pháp lý đối với họ như đối với người chưa đủ 6 tuổi. Mọi giao dịch dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

Mất năng lực hành vi dân sự không phải là một mức độ năng lực hành vi dân sự mà là một tình trạng của năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định đối với cá nhân bị mắc các bệnh về tâm thần hoặc bệnh khác mà ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Do đó, khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì họ sẽ được khôi phục năng lực hành vi dân sự của mình.

1.2. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

Ngoài trường hợp liên quan đến bệnh tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến việc mất năng lực hành vi dân sự thì trình trạng phụ thuộc vào chất kích thích khác cũng là một căn cứ suy đoán pháp lý về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân.

Điều 24 BLDS quy định: “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện”

Như vậy, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người thành niên có năng lực hành vi dân sự, tuy nhiên do họ bị nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình nên họ có thể bị yêu cầu tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ không bị mất hết năng lực hành vi dân sự mà họ vẫn có thể tự mình tham gia được một số giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của họ. Bản thân họ là người có năng lực hành vi dân sự nhưng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự để tránh việc phá tán tài sản của gia đình nên chỉ những giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của họ mới phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.

Cá nhân được xác định là hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có các yếu tố:

- Phụ thuộc vào chất kích thích đến mức độ nghiện (nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác) ,

- Phát sinh hậu quả về tài sản từ tình trạng nghiện dẫn đến phá tán tài sản của gia đình,

- Có yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan có mối quan hệ với người đó

- Có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền có thể ra quyết định tuyên bố là người hạn chế năng lực hành vi dân sự).

Khi một cá nhân được xác định là người hạn chế năng lực hành vi dân sự, họ sẽ có người đại diện theo pháp luật. Việc xác định người đại diện theo pháp luật và phạm vi đại diện do Tòa án quyết định.

Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Với những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày thì tự xác lập và thực hiện mà không cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Ngoài ra, đối với những trường hợp có quy định cuả văn bản pháp luật khác không cấm người hạn chế năng lực hành vi dân sự được tự mình tham gia xác lập, thực hiện thì các cá nhân này được quyền tham gia mà không cần sự đồng ý của người đại diện

1.3. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

 Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

Thực tế trong xã hội có rất nhiều người vì những lý do khác nhau như sức khỏe, tình trạng tinh thần, tuổi tác, ốm đau, tai nạn… dẫn đến khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ rất yếu. Tuy nhiên, họ không rơi vào tình trạng như người bị mất năng lực hành vi dân sự, nhưng thực tế năng lực hành vi dân sự của họ bị hạn chế rất nhiều. Một cá nhân được coi là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khi thỏa mãn các điều kiện sau:

- Là người trên 18 tuổi.

- Tình trạng nhận thức và làm chủ hành vi khó khăn nhưng chưa đến mức mất hẳn năng lực hành vi, xuất phát từ nguyên nhân thể chất hoặc tinh thần.

- Có yêu cầu của chính người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan.

- Có kết luận xác nhận của giám định pháp y tâm thần.

- Có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố họ là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Đối với những người này, Tòa án chỉ định người giám hộ cho họ.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và thực tiễn áp dụng

Năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự cũng tương tự như năng lực hành vi dân sự đã được quy định trong BLDS. Điều đó đồng nghĩa: trong một vụ án dân sự, khi đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án) là người trên 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì họ tự mình tham gia tố tụng để giải quyết vụ việc dân sự. Việc giải quyết vụ việc không gặp khó khăn gì. Song đối với những vụ án mà đương sự là người mất năng lực hành vi tố tụng dân sự, người hạn chế năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, điều khiển hành vi thì để xác định một đương sự rơi vào tình trạng trên còn gặp nhiều khó khăn do những quy định của pháp luật.

2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân

Khi giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án, khi đương sự tham gia tố tụng họ phải là người có đầy đủ năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự (TTDS). Khoản 1 Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) quy định: Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Khoản 2 Điều 69 BLTTDS quy định: Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân.

2.2. Thực tiễn áp dụng

Trên thực tiễn, trong một vụ việc dân sự, sau khi thụ lý, quá trình thu thập chứng cứ mới phát hiện có đương sự bị rơi vào tình trạng mất năng lực, hạn chế năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, điều khiển hành vi. Để đảm bảo quyền lợi cho họ, Tòa án phải hướng dẫn đương sự khởi kiện một vụ việc khác để yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của BLDS. Đồng thời, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự đã thụ lý để chờ kết quả của vụ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người bị mất, hạn chế năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, điều khiển hành vi.

Tuy nhiên, khi tuyên bố một người mất năng lực hành vi, có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi thì thực tiễn áp dụng vẫn còn gặp một số khó khăn, vướng mắc. Cụ thể:

Một trong những căn cứ để Tòa án chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự thì phải có kết luận của giám định pháp y tâm thần trong trường hợp để tuyên bố một người mất năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, điều khiển hành vi. Đối với đương sự trong đối tượng này là người có quyền (đồng nguyên đơn hoặc người có quyền liên quan đến vụ án) thì việc để nguyên đơn hoặc người có quyền lợi liên quan yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự và đưa họ đi giám định không gặp khó khăn. Nhưng thực tế thì những trường hợp này rất hiếm xảy ra. Số đông lại rơi vào các vụ việc có đồng bị đơn, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người mất năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi.

Về khía cạnh tâm lý: Bị đơn là người đang bị kiện, đang bị nguyên đơn cho rằng mình đang xâm phạm đến quyền và lợi ích của họ. Hoặc là người có nghĩa vụ liên quan sẽ phải cùng với bị đơn thực hiện nghĩa vụ do nguyên đơn yêu cầu. Như vậy, quyền về nhân thân và các quyền về tài sản của mình sẽ mất đi hoặc sẽ phải chia sẻ cho nguyên đơn, người có quyền lợi liên quan. Bị đơn, người có nghĩa vụ luôn gây khó khăn nên không dễ dàng có thể đưa được đồng bị đơn hoặc người có cùng nghĩa vụ là những người thân thích với mình đi giám định theo quyết định trưng cầu giám định của Tòa án.

Khi họ đã không đồng ý để đưa người thân thích của mình đi giám định thì pháp luật cũng không có biện pháp gì để cưỡng chế với những người này. Không thể áp giải họ đi (nếu họ có thể trạng sức khỏe bình thường) lại càng không có biện pháp gì để đưa đi giám định với người ốm đau, phải nằm liệt giường hoặc sống thực vật. Để thực hiện việc này thì về đạo đức đã bị dư luận lên án mạnh mẽ. Nhưng nếu không có kết quả giám định thì việc dân sự không được giải quyết dẫn đến vụ án dân sự cứ mãi tạm đình chỉ, “đắp chiếu” để đấy sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của những đương sự khác.

BLTTDS cũng đã quy định tại Điều 480 về việc xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng có quy định tại khoản 8 “Lừa dối, mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám định thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định kết luận sai với sự thật khách quan” những quy định này chỉ được áp dụng khi có những hành vi cản trở hoạt động của người giám định khi họ thực hiện việc giám định mà đã có đối tượng để giám định. Còn việc giám định tâm thần với người mất năng lực hành vi tố tụng dân sự, có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi thì những trường hợp này có gia đình quản lý, chăm sóc. Nếu họ không đồng ý để đưa người thân, người phải nuôi dưỡng đi thực hiện việc giám định thì pháp luật chưa có biện pháp nào để xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng này.

Một vấn đề khác đặt ra là: Vậy để thay thế cho kết luận giám định pháp y tâm thần, đương sự có thể cung cấp những chứng cứ khác hoặc Tòa án có thể thu thập chứng cứ từ những nguồn khác theo quy định của Điều 97 BLTTDS để chứng minh người bị yêu cầu rơi vào tình trạng mất năng lực hoặc khó khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi có được không? Điều này pháp luật chưa cho phép vì dễ dẫn đến việc tùy tiện khi áp dụng dẫn đến việc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp.

Trường hợp khác: một người bị tai biến mạch máu não hoặc do tai nạn, sau khi điều trị, hậu quả để lại còn nặng nề nên gặp khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi. Thậm chí họ phải nằm liệt giường, sống đời sống thực vật, sinh hoạt hàng ngày hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của người khác. Điều này được mọi người xung quanh thừa nhận. Trong trường hợp này, nếu cứ quy định “cứng nhắc” để tuyên bố họ có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi mà phải có kết luận giám định pháp y tâm thần là một việc hết sức khó khăn cho đương sự yêu cầu và cả Tòa án giải quyết nữa.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Để tháo gỡ những vướng mắc trên khi thực hiện các quy định của BLTTDS, tác giả kiến nghị cần có những hướng dẫn cụ thể về những vấn đề sau:

- Những chất kích thích khác quy định trong Điều của 24 BLDS về việc quy định người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác là những chất gì? Cần quy định thêm những trường hợp không phải do dùng chất kích thích nhưng “nghiện” trò chơi điện tử, đua xe, đá gà, lô đề…dẫn đến hạn chế năng lực hành vi dân sự và phá tán tài sản của gia đình.

- Việc giám định pháp y tâm thần chỉ nên đặt ra với người đã có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng sau đó lại rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi. Cần có những quy định mở hơn về việc thu thập chứng cứ trong những trường hợp quá rõ ràng, nhiều người cùng biết, cùng công nhận một cá nhân không có năng lực hành vi dân sự từ nhỏ, cho đến khi họ 18 tuổi mà khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ không có gì tiến triển thêm thì họ thuộc trường hợp bị mất năng lực hành vi.. .thì không cần thiết bắt buộc phải có kết luận giám định pháp y tâm thần mà có thể thu thập chứng cứ hợp pháp từ những nguồn khác như yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ là: bệnh án điều trị, sổ khám bệnh, xác minh với bệnh viện, từ những người sống cùng khu dân cư…

Tương tự đối với một người do những sự kiện trong cuộc sống như bị tai nạn, ốm đau, bệnh tật…dẫn đến việc khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi. Nếu những người này do sức khỏe quá yếu, nằm liệt một chỗ, mọi sinh hoạt đều phải phụ thuộc vào người khác, không còn khả năng biểu đạt ý chí nữa, việc này được nhiều người xác nhận thì cũng không nên đặt ra việc phải giám định pháp y tâm thần đối với họ mà có thể thu thập chứng cứ từ những nguồn khác hợp pháp theo quy định của pháp luật.

ThS. TRƯƠNG THỊ TỐ UYÊN (Phó Chánh án TAND khu vực 12 - thành phố Hải Phòng)

TAND quận Liên Chiểu, Đà Nẵng xét xử vụ án dân sự - Ảnh: Ngọc Yến.