Người khởi kiện không bắt buộc xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện
Sau khi nghiên cứu bài viết trao đổi ý kiến “Người khởi kiện có bắt buộc xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện hay không?” của tác giả Trương Minh Tấn, đăng ngày 23/01/2024, tôi đồng thuận quan điểm thứ hai.
Thực tế hiện nay một số Tòa án khi nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện thì có nơi yêu cầu người khởi kiện phải có xác nhận nơi cư trú người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của cơ quan tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận có nơi thì không bắt buộc thủ tục này. Việc xác nhận thông tin địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không bắt buộc khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án, bởi lẽ:
Căn cứ điểm e khoản 4 Điều 189 BLDS 2015 quy định về nội dung địa chỉ của người bị kiện trên đơn khởi kiện gồm: Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức. Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện.
Như vậy, trong trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện. Hiện nay, Tòa án khi nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện thì có nơi yêu cầu người khởi kiện phải có xác nhận nơi cư trú người bị kiện dẫn đến nhiều khó khăn cho người khởi kiện. Bởi lẽ, trách nhiệm người khởi kiện là nghĩa vụ là phải cung cấp địa chỉ của bị đơn chứ không phải nghĩa vụ phải xác nhận nơi cư trú của bị đơn.
Hiện nay, trong các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng kinh tế, vay, mượn tài sản, thừa kế, đất đai… thì trường hợp bị đơn vắng mặt ở địa phương xảy ra tương đối nhiều. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho người khởi kiện. Trong khi, căn cứ tại khoản 3 Điều 13 Nghị định 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 quy định các trường hợp được cung cấp, trao đổi, thông tin, tài liệu trong cơ sở dữ liệu về cư trú thì việc xác nhận nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác phải được người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó đồng ý bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực và được Trưởng Công an cấp xã hoặc Trưởng Công an cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã tại nơi công dân đó đăng ký thường trú hoặc tạm trú đồng ý cho phép cung cấp, trao đổi thông tin”. Trong khi đó, cũng tại khoản 3 Điều 13 Nghị định 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 quy định Tòa án được cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong Cơ sở dữ liệu về cư trú phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử”.
Ngoài ra, căn cứ tại khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015, trong trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú, làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện, thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Giả sử, A vay tiền của B, A vi phạm nghĩa vụ thanh toán, A có công việc ở nhiều nơi và không có nơi cư trú ổn định, vậy B sẽ xác nhận nơi cư trú của A như thế nào? Và A chứng minh như thế nào về việc A che giấu địa chỉ, nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với B để làm căn cứ để Tòa án thụ lý. Bởi lẽ, nếu Tòa án yêu cầu phải có xác nhận nơi cư trú thì trường hợp này Toà án trả lại đơn khởi kiện.
Thiết nghĩ, cần có hướng dẫn cụ thể để xác định nơi cư trú của bị đơn, theo tác giả, người khởi kiện phải cung cấp được trên đơn khởi kiện gồm: Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức. Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện. Từ đó, Tòa án căn cứ địa chỉ cung cấp gửi đề nghị đến cơ quan có thẩm quyền xác nhận nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp, người khởi kiện không biết được thông tin của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng không có căn cứ chứng minh người bị kiện không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện không cung cấp được địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
TAND huyện Vũng Liêm, Vĩnh Long xét xử vụ án dân sự - Ảnh: TL
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tòa tuyên án với 17 bị cáo trong vụ án "chuyến bay giải cứu" giai đoạn 2
-
Nhận thức về đối tượng áp dụng “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
-
Học viện Tòa án tổ chức trao quà trong chương trình “Đông Ấm Hà Quảng 2024”
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm 17 bị cáo trong vụ án “chuyến bay giải cứu” giai đoạn 2
Bình luận