.jpg)
Thực tiễn áp dụng án lệ và kiến nghị hoàn thiện trong giải quyết tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Bài viết phân tích thực tiễn áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp dân sự tại Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý, nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ, góp phần thống nhất xét xử và bảo đảm công bằng, minh bạch. Đồng thời, bài viết nhấn mạnh vai trò của chuyển đổi số và hợp tác quốc tế trong xây dựng cơ sở dữ liệu án lệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Đặt vấn đề
Án lệ, với tư cách là nguồn áp dụng pháp luật, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất áp dụng pháp luật và nâng cao chất lượng xét xử tại Việt Nam. Trong bối cảnh pháp luật thành văn còn nhiều khoảng trống, án lệ trở thành công cụ cần thiết để giải thích, hướng dẫn và chuẩn hóa cách hiểu pháp luật, giúp Tòa án giải quyết vụ việc nhất quán, minh bạch và bảo đảm quyền lợi các bên. Từ năm 2015, việc ghi nhận án lệ chính thức đánh dấu bước tiến trong tư duy pháp lý và cải cách tư pháp. Tuy vậy, việc áp dụng án lệ trong thực tiễn, đặc biệt ở lĩnh vực dân sự, vẫn còn nhiều vướng mắc do quy định thiếu đồng bộ, hạn chế kỹ năng của Thẩm phán, khó khăn trong tiếp cận án lệ và tâm lý e dè khi sử dụng. Trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp và chuyển đổi số, cần có đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng án lệ để đề xuất các giải pháp nhằm phát huy hiệu quả công cụ pháp lý này. Bài viết sẽ tập trung phân tích thực trạng, vướng mắc và đưa ra kiến nghị hoàn thiện cơ chế áp dụng án lệ trong xét xử dân sự tại Việt Nam.
Khái niệm án lệ được quy định tại Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ như sau: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử ”[1].
Từ khái niệm án lệ được quy định tại Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ thì án lệ có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, án lệ được Tòa án tạo ra trong qua trình xét xử nên nguồn luật án lệ còn được gọi là luật được hình thành từ vụ việc (“case law”), là luật do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân tối cao ban hành (“council of judges make law”) thông qua nghị quyết. Các quy phạm pháp luật trong án lệ là sản phẩm của tư duy trên cơ sở tổng kết thực tiễn xét xử, phù hợp với các điều kinh tế, chính trị, xã hội và đạo đức và pháp luật.
Thứ hai, án lệ được hình thành phải mang tính mới. Nghĩa là, đây là quy tắc chưa có trước đó và không phải bất kỳ vụ việc, bản án nào cũng đều tạo ra án lệ. Đối với các vụ việc đơn thuần đã có quy định trong văn bản pháp luật hay tiền lệ trước đó để áp dụng thì Tòa án không tạo ra án lệ khi giải quyết các vụ việc này[2].
1. Thực tiễn áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
1.1. Những kết quả đạt được
Tính đến ngày 01/6/2025, theo số liệu trên Trang tin điện tử về Án Lệ của TANDTC, đã có 72 án lệ các loại vụ việc, trong đó án lệ về dân sự gồm 34 án lệ[3]. Các án lệ được các Thẩm phán TANDTC nghiên cứu, chọn lọc phù hợp với những vướng mắc, những quy định pháp luật còn nhiều quan điểm giải thích khác nhau. Theo trang Công bố bản án, có 1.928 vụ việc, vụ án áp dụng án lệ, trong đó đã có 1.233 vụ việc áp dụng án lệ dân sự để giải quyết[4]. Trong thực tế, còn nhiều vụ việc đã được Tòa án xét xử, nhưng vì nhiều lý do mà chưa được mã hóa và đăng lên trang công bố bản án. Vì vậy, thực tế số lượng các vụ án áp dụng án lệ có thể nhiều hơn. Đây là một thành công thể hiện khi pháp luật thành văn chưa quy định bao quát hết các quan hệ pháp luật, nhất là quan hệ pháp luật dân sự, án lệ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Đặc biệt, Án lệ số 08/2016/AL và Án lệ số 09/2016/AL là hai án lệ được án dụng nhiều nhất trên thực tế, do thực tiễn thi hành về lãi, lãi suất, nợ quá hạn có nhiều cách giải quyết khác nhau đối với từng Thẩm phán. Số lượng vụ án áp dụng Án lệ số 08 và 09 lần lượt là 255 vụ án (chiếm tỷ lệ 20,68%) và 198 vụ án (chiếm tỷ lệ 16,06%).
Qua các số liệu thống kê trên có thể thấy các cấp TAND đã rất nỗ lực trong việc giải quyết kịp thời các vụ việc dân sự và áp dụng án lệ, có đưa ra cơ sở pháp lý trong phần nhận định của bản án. Tỷ lệ các vụ án dân sự có áp dụng án lệ ngày càng gia tăng. Ngoài ra, hệ thống án lệ của Việt Nam hiện nay đang được cập nhật nhiều hơn, với chủ yếu là án lệ về dân sự. Điều này cho thấy sự quan tâm của TAND đối với các vụ việc về dân sự. Các vụ việc áp dụng án lệ gia tăng cũng phản ánh thực tế đi cùng với việc hội nhập, các quan hệ dân sự ngày càng đa dạng, nhiều quan hệ đã vượt ra những quy định pháp luật điều chỉnh, gây áp lực rất lớn cho các cơ quan nhà nước, đặc biệt là hệ thống TAND, nhất là trong bối cảnh các vụ việc khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cũng không ngừng tăng. Những tài liệu cần xem xét ngày càng phức tạp hơn như các tài liệu viết bằng chữ, ghi âm, ghi hình, lời khai của những người làm chứng… Do đó, có án lệ để áp dụng sẽ là công cụ hỗ trợ cho các Thẩm phán giải quyết những vụ việc khó, quy định pháp luật chồng chéo, chưa được thực thi có hiệu quả.
Trong quá trình thụ lý, giải quyết, nhận định và đưa ra quyết định, bản án, các cấp TAND đã bảo đảm áp dụng đúng trình tự, thủ tục xem xét, xác minh, thu thập, công khai chứng cứ, hoà giải, nghiên cứu các quy định pháp luật, án lệ có liên quan. Việc áp dụng án lệ trong các bản án, quyết định của Tòa án trong những năm qua đạt được kết quả như trên đã góp phần to lớn trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức được hành vi sai trái, chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, tạo sự tin tưởng của người dân đối với công lý, với chính sách pháp luật.
Ngoài ra, một số kết quả đạt được cùng với những số liệu nêu trên tác giả đưa ra như:
Thứ nhất, áp dụng án lệ giúp Tòa án đơn giản hóa quá trình xét xử, tiết kiệm thời gian tra cứu pháp luật khi xử lý các vụ việc tương tự, nhờ vào việc dựa trên lập luận đã có sẵn từ các vụ án điển hình.
Thứ hai, án lệ góp phần tạo sự thống nhất trong xét xử giữa các cấp Tòa án, nâng cao tính công bằng và minh bạch khi các vụ án tương đồng được giải quyết theo một nguyên tắc chung, đồng thời tăng tính dự đoán cho đương sự và hỗ trợ Thẩm phán ra quyết định nhanh chóng, hiệu quả.
Thứ ba, việc sử dụng án lệ thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, luật sư và người hành nghề pháp lý, đòi hỏi kỹ năng phân tích, lập luận, đánh giá và viện dẫn pháp lý chính xác, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng.
Như vậy, có thể thấy, các chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đã được ban hành kịp thời, là cơ sở pháp lý vững chắc trong quá trình Tòa án áp dụng trong thực tiễn đặc biệt là BLDS 2015, BLTTDS 2015 và Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP. Đồng thời, các cơ quan chính quyền địa phương cùng với TAND các cấp đã có sự phối hợp, thực hiện tốt quy định của pháp luật nói chung, phổ biến án lệ đến người dân và đời sống xã hội. Áp dụng án lệ đi đôi với công khai bản án nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Với tư cách là một nguồn của pháp luật, án lệ đã thể hiện được vai trò quan trọng trong công tác xét xử của Tòa án. Án lệ chủ yếu được các nhà làm luật, công tác trong hệ thống pháp luật nghiên cứu. Để phổ biến hơn với mọi người và xã hội, việc đi liền giữa áp dụng án lệ và bản án sẽ thu hút được nhiều người quan tâm hơn, so với chỉ những nhà nghiên cứu pháp luật. Người dân chỉ đọc báo, biết về nội dung vụ án và quy định của pháp luật được áp dụng trong vụ án đó. Bằng cách phối hợp với nhau, người dân sẽ biết được rằng đã có một “lệ” nếu vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
1.2. Một số tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, việc áp dụng án lệ trong các vụ việc dân sự vẫn còn hạn chế, thiếu thống nhất và chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức cá nhân của Thẩm phán. Dù đã có cơ chế pháp lý quy định rõ, nhưng số bản án viện dẫn án lệ còn rất ít so với tổng số vụ việc, cho thấy án lệ chưa thực sự được coi trọng như các nguồn luật thành văn. Thẩm phán còn lúng túng trong thao tác viện dẫn, e ngại sai sót nên nhiều khi chỉ vận dụng tinh thần án lệ mà không ghi rõ, làm giảm tính minh bạch và chuẩn hóa xét xử. Án lệ tại Việt Nam hiện nay đang được đưa ra để giải quyết những tranh chấp phát sinh mà chưa có pháp luật giải quyết hoặc chưa có sự thống nhất pháp luật. Án lệ được Tòa án các cấp đề xuất, đặc biệt là các Tòa án khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, có những án lệ sẽ chủ yếu được áp dụng vì sẽ theo những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định của khu vực này. Ngoài ra, có thể do quá trình học tập và tư duy pháp lý của các Thẩm phán ở khu vực phía Nam, có sự ảnh hưởng bởi hệ thống pháp luật Hoa Kỳ nên việc áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết vụ án thường xuyên hơn. Điều này cho thấy, chưa có sự đồng nhất về tư duy áp dụng án lệ đối với các Thẩm phán.
Thứ hai, việc áp dụng án lệ trong dân sự diễn ra không đồng đều, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực kinh doanh thương mại, còn nhiều lĩnh vực khác thì rất ít được vận dụng, gây khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả áp dụng án lệ trên diện rộng. Có sự chênh lệch về mức độ áp dụng án lệ giữa các khu vực địa lý và giữa các cấp xét xử. Tính theo khu vực từ Đà Nẵng trở ra (miền Bắc và các tỉnh khu vực Thanh Hóa, Nghệ An)… và khu vực từ Đà Nẵng trở vào (Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ và miền Nam…), số lượng vụ án áp dụng án lệ cũng có sự phân hóa rõ rệt. Trong tổng số 1.233 vụ án dân sự có áp dụng án lệ để giải quyết, có đến 931 vụ án từ Đà Nẵng trở vào áp dụng án lệ (chiếm tỷ lệ 75,51%). Trong khi đó, số lượng vụ án áp dụng án lệ của các tỉnh miền Bắc và khu vực Đà nẵng trở ra chỉ là 302 vụ án (chiếm tỷ lệ 24,49%). Điều này cho thấy mức độ phổ biến của án lệ cũng đang theo xu hướng đáp ứng những vấn đề mới nảy sinh của từng khu vực. Theo số liệu trên trang Công bố bản án, có 1.233 vụ án dân sự có áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết. Tuy nhiên, trong số đó, số lượng vụ án do Tòa án cấp sơ thẩm (bao gồm Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh giải quyết) là 990 vụ án có áp dụng án lệ và 243 vụ án do cấp phúc thẩm (bao gồm Tòa án cấp tỉnh và cấp cao) giải quyết có áp dụng án lệ. Đây là con số chênh lệch khá lớn. Tòa án cấp sơ thẩm (đặc biệt là Tòa án nhân dân cấp huyện) thụ lý và giải quyết phần lớn các vụ án dân sự đầu tiên. Đây là cấp xét xử phổ biến và rộng rãi nhất trong hệ thống tư pháp, tiếp nhận phần lớn các tranh chấp dân sự trong xã hội. Do đó, số lượng vụ án được giải quyết ở cấp sơ thẩm luôn nhiều hơn đáng kể so với cấp phúc thẩm, nơi chỉ xét xử lại các vụ án có kháng cáo hoặc kháng nghị. Phần lớn án lệ hiện nay được ban hành để hướng dẫn những vấn đề pháp lý ở giai đoạn sơ thẩm, như việc xác định quyền sở hữu, hợp đồng, chia thừa kế, tranh chấp đất đai… Đây là những dạng tranh chấp thường được xét xử từ cấp sơ thẩm, nên việc áp dụng án lệ ở giai đoạn này là phổ biến hơn. Cấp phúc thẩm thường chỉ giải quyết kháng cáo về các vấn đề thủ tục hoặc đánh giá lại kết quả pháp lý, nên ít có tình huống mới để viện dẫn án lệ. Sự chênh lệch giữa số lượng vụ án áp dụng án lệ ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm phản ánh tính chất, vai trò và khối lượng công việc khác nhau giữa các cấp xét xử trong hệ thống Tòa án. Đây là điều phù hợp với thực tiễn tổ chức xét xử hiện nay và cũng cho thấy việc áp dụng án lệ đang chủ yếu được triển khai ở cấp xét xử đầu tiên, nơi phát sinh nhiều vấn đề pháp lý thực tiễn cần hướng dẫn.
Thứ ba, một số Thẩm phán quá phụ thuộc vào án lệ mà bỏ qua việc phân tích toàn diện hồ sơ và các nguồn pháp luật khác. Mặc dù án lệ đã được thẩm định kỹ trước khi công bố, nhưng trong một số trường hợp đặc thù, Tòa án vẫn cần xem xét thêm yếu tố tập quán hay hoàn cảnh cụ thể để bảo đảm lựa chọn căn cứ pháp lý phù hợp nhất. Điển hình như Bản án số 98/2019/DS-PT ngày 27/8/2019 của TAND huyện Đ, tỉnh C về tranh chấp “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, tại mục[5] trong phần Nhận định của Tòa án, Tòa án đã nhận định: “Đối với yêu cầu của Agribank Chi nhánh huyện Đ, tỉnh C về việc tiếp tục tính lãi phát sinh kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến ngày tất toán các Hợp đồng tín dụng số: 07150118/HĐTD ngày 01/6/2015 và số: 201600592/HĐTD ngày 26/01/2016. Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu của Ngân hàng phù hợp theo Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2019 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nên được chấp nhận”.
Qua phân tích có thể nhận thấy rằng, trong vụ án nêu trên, Tòa án đã có động thái viện dẫn án lệ, tuy nhiên việc này chưa được thực hiện đúng theo yêu cầu tại điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, cụ thể là thiếu sự trình bày đầy đủ về mã số, tên án lệ, hoàn cảnh pháp lý, hướng giải quyết trong án lệ cũng như việc đối chiếu với tình huống cụ thể của vụ án đang xét xử trong phần “Nhận định của Tòa án”. Ngoài ra, phần viện dẫn còn bộc lộ hạn chế ở chỗ không làm rõ nội dung vụ việc trong án lệ và cách thức áp dụng giải pháp pháp lý từ án lệ đó vào vụ án cụ thể. Việc thiếu vắng sự phân tích chi tiết và biện luận thuyết phục đã dẫn đến lập luận của Tòa án trở nên lỏng lẻo, chưa chứng minh được mối liên hệ hợp lý giữa vụ việc đang giải quyết và tình huống trong án lệ được viện dẫn, từ đó khiến cho kết luận “có căn cứ” trở nên thiếu sức thuyết phục.
Những hạn chế trong quá trình áp dụng án lệ giải quyết các vụ việc dân sự bắt nguồn từ những nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, do Việt Nam theo truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, pháp luật thành văn giữ vai trò trung tâm nên Thẩm phán thường thận trọng, thiếu linh hoạt khi áp dụng án lệ. Điều này gây trở ngại trong việc thiết lập và triển khai hiệu quả cơ chế án lệ trong thực tiễn tố tụng.
Thứ hai, công tác đào tạo và nghiên cứu pháp lý ở Việt Nam chưa chú trọng đến án lệ. Nội dung về án lệ mới chỉ được giới thiệu ở mức cơ bản, thiếu đào tạo chuyên sâu về kỹ năng phân tích và vận dụng án lệ, dẫn đến sự lệ thuộc vào văn bản pháp luật khi giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, việc thực thi áp dụng án lệ còn nhiều hạn chế do thiếu quy trình cụ thể và cơ chế thực thi rõ ràng. Quy định về sửa đổi, đình chỉ án lệ chưa được triển khai kịp thời, gây ảnh hưởng đến sự ổn định pháp lý và quyền lợi của đương sự. Điều này đặt ra yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về áp dụng và cập nhật án lệ
2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Thứ nhất, để khắc phục tình trạng áp dụng án lệ còn hạn chế và thiếu thống nhất giữa các Thẩm phán cần đẩy mạnh đào tạo chuyên sâu về kỹ năng phân tích, lý giải và vận dụng án lệ trong công tác xét xử. TANDTC nên xây dựng chương trình bồi dưỡng riêng về án lệ, bao gồm cả thực hành phân tích tình huống so sánh giữa vụ án thực tiễn và án lệ có liên quan. Điều này sẽ giúp hạn chế tình trạng viện dẫn máy móc hoặc chỉ áp dụng “tinh thần” án lệ mà không làm rõ mối liên hệ pháp lý.
Thứ hai, để giải quyết sự chênh lệch về mức độ áp dụng án lệ giữa các khu vực địa lý và giữa các cấp xét xử, cần có sự chỉ đạo thống nhất từ TANDTC. Cụ thể, TANDTC nên ban hành hướng dẫn định kỳ về các dạng vụ việc có thể hoặc nên áp dụng án lệ, đồng thời khuyến khích TAND cấp sơ thẩm và phúc thẩm thực hiện thống kê, báo cáo định kỳ về số lượng và nội dung các vụ việc có viện dẫn án lệ. Việc áp dụng án lệ cần được xem như một chỉ tiêu nghiệp vụ quan trọng để đánh giá chất lượng xét xử của Thẩm phán, qua đó tạo động lực để Thẩm phán các địa phương - đặc biệt là khu vực miền Bắc – mạnh dạn hơn trong áp dụng án lệ. Ngoài ra, TANDTC nên tổ chức các hội thảo chuyên đề liên vùng nhằm chia sẻ thực tiễn áp dụng án lệ giữa các Tòa án trong cả nước, từ đó góp phần định hình tư duy xét xử dựa trên tiền lệ một cách đồng bộ hơn.
Thứ ba, nhằm tránh tình trạng Thẩm phán quá lệ thuộc vào án lệ mà bỏ qua việc đánh giá toàn diện hồ sơ vụ án và các nguồn pháp luật có liên quan, cần nhấn mạnh rằng án lệ là một trong nhiều công cụ pháp lý hỗ trợ cho việc giải thích và áp dụng pháp luật, không phải là căn cứ duy nhất. Do đó, khi viện dẫn án lệ, Thẩm phán cần thực hiện phân tích song hành giữa nội dung án lệ, các quy định của pháp luật hiện hành, tập quán (nếu có) và hoàn cảnh cụ thể của vụ việc. Cần quy định rõ trong Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP hoặc các văn bản hướng dẫn kỹ năng xét xử rằng phần “Nhận định” phải thể hiện quá trình đánh giá toàn diện giữa các nguồn pháp lý, trong đó án lệ đóng vai trò bổ trợ, định hướng. Việc này không chỉ giúp nâng cao chất lượng lập luận của bản án mà còn bảo đảm tính khách quan, phù hợp với nguyên tắc độc lập xét xử.
Thứ tư, để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu pháp lý liên quan đến án lệ, cần tích hợp các nội dung về án lệ vào chương trình giảng dạy chính khóa của Học viện Tòa án và các khóa bồi dưỡng Thẩm phán. Trong đó, cần phân biệt rõ giữa “phân tích nội dung pháp lý của án lệ” và “so sánh tình huống với vụ án cụ thể” để người học hiểu đúng vai trò và kỹ thuật vận dụng. Các giảng viên và chuyên gia pháp lý cần phát triển học liệu chuyên sâu, bao gồm bài tập tình huống, đề tài nghiên cứu khoa học... Việc gắn kết giữa lý luận và thực tiễn này sẽ giúp đào tạo được thế hệ Thẩm phán có tư duy pháp lý linh hoạt, phù hợp với xu thế hội nhập pháp lý quốc tế.
Cuối cùng, về thể chế, cần nhanh chóng hoàn thiện quy trình cập nhật, sửa đổi và đình chỉ án lệ để bảo đảm tính ổn định và kịp thời thích ứng với sự thay đổi của pháp luật. Tăng cường công tác chỉ đạo Tòa án nhân dân các cấp, các đơn vị thuộc TANDTC chấp hành nghiêm túc Chỉ thị của Chánh án TANDTC về công tác rà soát, phát hiện, bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật để hoàn thành chỉ tiêu đề xuất án lệ hàng năm. Từ đó, làm sơ sở, tạo nguồn án lệ nhiều hơn để Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét, thông qua án lệ; tăng số lượng án lệ để các Thẩm phán nghiên cứu, áp dụng và viện dẫn trong quá trình giải quyết các vụ án.
Kết luận
Việc áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp dân sự tại Việt Nam là một bước đi quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp và hiện đại hóa hệ thống pháp luật. Từ khi án lệ được chính thức công nhận là nguồn luật bổ trợ, các Tòa án đã bước đầu vận dụng công cụ này trong hoạt động xét xử nhằm bảo đảm tính thống nhất và dự đoán trong các phán quyết tư pháp. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc áp dụng án lệ vẫn còn nhiều hạn chế cả về nhận thức, kỹ năng chuyên môn lẫn điều kiện kỹ thuật và thể chế pháp lý. Các phân tích trong bài viết đã chỉ ra rằng, để nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ trong lĩnh vực dân sự, cần triển khai đồng bộ các giải pháp: hoàn thiện hành lang pháp lý về án lệ, nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán trong việc tiếp cận và vận dụng án lệ, phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu án lệ thân thiện và dễ tiếp cận, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong hoạt động tra cứu, cập nhật và sử dụng án lệ. Bên cạnh đó, cần xây dựng văn hóa pháp lý tôn trọng và đề cao vai trò của án lệ trong đời sống tư pháp, hướng đến hình thành một cơ chế áp dụng mang tính chuyên nghiệp, linh hoạt và có tính thực thi cao. Trong xu thế hội nhập và chuyển đổi số, án lệ không chỉ là công cụ bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, mà còn là biểu hiện của tư duy xét xử hiện đại, minh bạch và gần gũi với công lý. Việc sử dụng hiệu quả án lệ sẽ góp phần thúc đẩy niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp, đồng thời khẳng định quyết tâm cải cách và chuẩn hóa nền tư pháp Việt Nam theo hướng công bằng, chuyên nghiệp và hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
3. Bùi Tiến Đạt, Áp dụng án lệ - Nhu cầu tất yếu trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học (Luật học), số 25/2009, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Đỗ Thanh Trung, Bàn về nguyên tắc tương tự trong hoạt động áp dụng án lệ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3, kỳ I tháng 02/2018.
5. Đỗ Thanh Trung, Chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Đỗ Thanh Trung, Một số vấn đề lý luận và phát triển án lệ, https://tapchitoaan.vn/mot-so-van-de-ly-luan-ve-ap-dung-va-phat-trien-an-le11567.html.
7. Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ
8. Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 6/11/2016 của TANDTC về việc công bố án lệ.
9. Trang tin điện tử về án lệ (TANDTC), https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/anle?linhVuc=34.
10. Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Toà án (TANDTC), https://congbobanan.toaan.gov.vn/0tat1cvn/ban-an-quyet-dinh.
[1] Điều 1 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ .
[2] Đỗ Thanh Trung (2024), Một số vấn đề lý luận về áp dụng và phát triển án lệ, https://tapchitoaan.vn/mot-so-van-de-ly-luan-ve-ap-dung-va-phat-trien-an-le11567.html, truy cập ngày 01/6/2025.
[3] Trang tin điện tử về án lệ (TANDTC), https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/anle?linhVuc=34, truy cập ngày 30/6/2025.
[4] Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Toà án (TANDTC), https://congbobanan.toaan.gov.vn/0tat1cvn/ban-an-quyet-dinh, truy cập ngày 01/6/2025.
[5] Bùi Tiến Đạt, Áp dụng án lệ - Nhu cầu tất yếu trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học (Luật học), số 25/2009, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tòa án nhân dân tp Hà Nội mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án dân sự - Ảnh: Chu Dũng/ HNM
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của 34 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 355 Tòa án nhân dân khu vực
-
Bình Phước: Tìm nhân chứng là hành khách trên xe khách mang biển kiểm soát 47B–022.22
-
Một số quy định mới về tố tụng hình sự
-
Từ ngày 01/7/2025, Nghị quyết số 02/2025/NQ-HĐTP chính thức có hiệu lực thi hành, bảo đảm áp dụng đúng và thống nhất một số quy định của Luật Phá sản, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Bộ luật Hình sự
-
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Lê Minh Trí nhấn mạnh: "Trên gương mẫu làm trước – dưới đồng hành, hoạt động thông suốt - hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao"
Bình luận