Vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự

Sau khi nghiên cứu bài viết “Vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự không?” của tác giả Ngô Anh Dũng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 28/4/2025, tôi đồng tình với quan điểm thứ hai nêu trong bài viết.

Việc xác định đúng thẩm quyền xét xử là điều kiện tiên quyết nhằm bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự được tiến hành đúng pháp luật, tránh tình trạng vi phạm thủ tục tố tụng và xâm phạm quyền con người. Trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là các vụ án có yếu tố liên quan đến quân nhân, công tác phân định thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự đôi khi còn có ý kiến khác nhau.

Vụ án mà Tạp chí Tòa án nhân dân nêu, liên quan đến hai bị can H và A bị truy tố về tội “cố ý gây thương tích” theo Điều 134 BLHS 2015, đặt ra một vấn đề pháp lý cần được làm rõ: Tòa án quân sự có còn thẩm quyền xét xử vụ án trong trường hợp hành vi phạm tội xảy ra trước khi nhập ngũ và đến thời điểm xét xử, bị can đã xuất ngũ? Tôi cho rằng, Tòa án quân sự không còn thẩm quyền xét xử trong trường hợp này.

1. Cơ sở pháp lý và lập luận

Thứ nhất, về thời điểm thực hiện hành vi phạm tội: Theo thông tin vụ án, hành vi “cố ý gây thương tích” xảy ra ngày 05/11/2022, khi H và A chưa nhập ngũ. Như vậy, xét tại thời điểm phạm tội, cả hai là công dân bình thường, không phải là quân nhân. Đây là căn cứ có tính chất quyết định đến việc xác định thẩm quyền xét xử.

Thứ hai, tại khoản 3 Điều 3 Thông tư số 03/2023/TT-TANDTC ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự đã quy định: Trường hợp phát hiện người thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian phục vụ trong Quân đội, nhưng đến thời điểm phát hiện tội phạm hoặc khởi tố, điều tra, truy tố thì người đó đã ra khỏi Quân đội, thì thẩm quyền xét xử được phân định như sau: (1) Nếu hành vi phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội thì Tòa án quân sự xét xử; (2) Các trường hợp khác do Tòa án nhân dân xét xử.

Trong vụ án này, hành vi phạm tội không phát sinh trong thời gian bị can là quân nhân, không liên quan đến bí mật quân sự, cũng không gây thiệt hại cho Quân đội. Do đó, việc chuyển vụ án sang cho Tòa án nhân dân xét xử là phù hợp với hướng dẫn tại Thông tư nêu trên.

Thứ ba, khoản 1 Điều 272 BLTTHS 2015 cũng quy định: “Tòa án quân sự xét xử những vụ án hình sự do quân nhân… thực hiện trong thời gian tại ngũ”. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự phải căn cứ vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, chứ không phải thời điểm khởi tố hay truy tố.

2. Phản biện một số quan điểm khác

Một số ý kiến cho rằng, do việc khởi tố, điều tra, truy tố được tiến hành khi bị can đang là quân nhân, thì Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, quan điểm này chưa phản ánh đúng bản chất của việc phân định thẩm quyền.

Thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào tình trạng pháp lý “tạm thời” của bị can tại thời điểm tố tụng, mà phụ thuộc vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội và bản chất pháp lý của tội phạm. Nếu cho rằng mọi vụ án do quân nhân thực hiện, bất kể thời điểm phạm tội, đều thuộc thẩm quyền Tòa án quân sự, thì sẽ làm mở rộng thẩm quyền một cách bất hợp lý, đi ngược với nguyên tắc phân định thẩm quyền tố tụng.

3. Kiến nghị

Từ những phân tích nêu trên, tác giả kiến nghị: Cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét lại thẩm quyền xét xử vụ án, chuyển hồ sơ sang Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền để đảm bảo việc xét xử đúng quy định của pháp luật, đồng thời tránh việc khiếu kiện tố tụng về sau.

Trường hợp Tòa án quân sự đã thụ lý, cần căn cứ Điều 275 BLTTHS 2015 để ra quyết định trả hồ sơ về Viện kiểm sát quân sự và đề nghị chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân.

Như vậy, việc xác định thẩm quyền xét xử không đơn thuần là vấn đề kỹ thuật tố tụng, mà còn thể hiện sự tôn trọng pháp luật và bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Trong vụ án nêu trên, việc Tòa án nhân dân xét xử là phù hợp với cả nguyên tắc pháp lý lẫn tinh thần của các quy định hiện hành. Cần sớm có hướng dẫn thống nhất để tránh các cách hiểu và áp dụng khác nhau trong thực tiễn. 

LÊ VĂN CƯỜNG (Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 3)

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3. Thông tư số 03/2023/TT-TANDTC ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân tối cao về phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự.

4. Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 15/6/2021 hướng dẫn áp dụng một số quy định về thẩm quyền trong tố tụng hình sự đối với các cơ quan tư pháp quân sự.

5. Nguyễn Văn Tình, Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự trong thực tiễn, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2023.

6. Lê Thanh Tú, Phân biệt thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự, Tạp chí Luật học Quân sự, số chuyên đề tháng 12/2022.

Toà án quân sự Trung ương xét xử phúc thẩm vụ án hình sự - Ảnh: Minh Chiến.