Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu, xét xử án dân sự, kinh doanh thương mại và dự báo về tranh chấp phát sinh trong thời gian tới

(TCTA) - Trong bối cảnh xã hội phát triển, các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại ngày càng đa dạng, phức tạp, số lượng các vụ việc tranh chấp tăng nhanh qua các năm. Cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, sự ra đời của trí tuệ nhân tạo (AI) đã, đang và sẽ tiếp tục tác động mạnh mẽ, sâu rộng, làm thay đổi căn bản nền kinh tế và xã hội Việt Nam.

Đặc biệt năm 2025 là thời điểm hệ thống Tòa án nhân dân bước vào giai đoạn sắp xếp tổ chức theo mô hình mới: Kết thúc hoạt động của 03 Tòa án nhân dân cấp cao, thành lập 03 Tòa phúc thẩm trực thuộc Tòa án nhân dân tối cao và thiết lập hệ thống TAND khu vực thay cho Tòa án nhân dân cấp huyện. Sự điều chỉnh hợp lý này nhằm hướng tới một hệ thống Tòa án tinh gọn, chuyên sâu và hiệu quả. Tuy nhiên, trước mắt theo thẩm quyền mới TAND khu vực được giao xét xử sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động. Đặc biệt là các vụ án có yếu tố nước ngoài, các việc yêu cầu công nhận và cho thi hành Quyết định, Bản án của Tòa án nước ngoài, Quyết định của trọng tài nước ngoài, bắt giữ tàu bay, tàu biển… Đây là trọng trách to lớn, nhưng đồng thời cũng là khó khăn, thách thức cho đội ngũ cán bộ, công chức tại các TAND khu vực. Với mục tiêu hạn chế các sai sót, giảm thiểu tình trạng kháng cáo, khiếu kiện, khiếu nại kéo dài và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Trong phạm vi bài viết tác giả xin chia sẻ, trao đổi một số vấn đề cần rút kinh nghiệm trong giải quyết các vụ việc về dân sự, kinh doanh thương mại và dự báo các tranh chấp mới có thể phát sinh trong thời gian tới để tham khảo trong công tác chuyên môn như sau:

I. Các sai sót cần rút kinh nghiệm trong tố tụng

1. Vi phạm thời hạn gửi Bản án sơ thẩm, Bản án phúc thẩm cho Viện kiểm sát cùng cấp

Theo quy định tại khoản 2 Điều 269 và khoản 1 Điều 315 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án đối với án sơ thẩm và 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với án phúc thẩm, Tòa án phải gửi Bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, vẫn còn một số Tòa án vi phạm quy định về thời hạn gửi Bản án nêu trên.

2. Vi phạm thời hạn gửi Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

3. Vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

4. Xác định quan hệ pháp luật chưa đúng hoặc chưa đầy đủ.

5. Vi phạm thủ tục tố tụng do không xác định được vụ hay việc kinh doanh, thương mại.

6. Xác định người tham gia tố tụng không đầy đủ hoặc xác định sai tư cách đương sự.

7. Chưa xem xét, thu thập và đánh giá toàn diện tài liệu, chứng cứ hoặc có sai sót trong việc xem xét, thẩm định tại chỗ, thẩm định giá, định giá tài sản…, dẫn đến việc xét xử không chính xác, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các bên và phải hủy án để xét xử lại.

II. Một số vấn đề cụ thể trong giải quyết tranh chấp

1. Về đánh giá chứng cứ

1.1. Trong vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất có nguồn gốc là di sản thừa kế chưa chia. Tại Biên bản họp gia đình, chỉ có một số người thừa kế đồng ý cho ông A quyền sử dụng đất tranh chấp, còn các thừa kế khác chưa có ý kiến. Dựa trên Biên bản họp gia đình, ông A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; sau đó, ông A đã thế chấp quyền sử dụng đất cho ngân hàng. Khi ký hợp đồng thế chấp tài sản, ngân hàng cũng không thẩm định tài sản thế chấp. Trường hợp này, bên nhận thế chấp tài sản (ngân hàng) không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và mục 1 Phần II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực toàn bộ là không đúng. Trường hợp này, Hợp đồng thế chấp vô hiệu một phần (vô hiệu phần của các đồng thừa kế không đồng ý tặng cho ông A quyền sử dụng đất).

1.2. Đối với văn bản có tiêu đề là “Giấy mua bán đất” nhưng nội dung lại thể hiện cam kết để đảm bảo cho việc ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu bên chuyển nhượng không thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận. Tuy nhiên, sau khi ký “Giấy mua bán đất”, các bên không ký kết Hợp đồng chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Trường hợp này xác định “Giấy mua bán đất” không phải là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà chỉ là cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bên chuyển nhượng có quyền đơn phương chấm dứt cam kết và phải bồi thường theo thỏa thuận tại “Giấy mua bán đất”. Có Tòa án cho rằng “Giấy mua bán đất” là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, buộc các bên tiếp tục thực hiện theo “Giấy mua bán đất” là không đúng quy định của pháp luật. Cũng có Tòa án cho rằng “Giấy mua bán đất” vi phạm cả về hình thức và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thể hiện bằng “Giấy mua bán đất” và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là không đúng thỏa thuận của các bên.

1.3. Một số vụ án về tranh chấp quyền sử dụng đất, Tòa án chưa thu thập đầy đủ và xem xét, đánh giá toàn diện tài liệu, chứng cứ mà chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn để chấp nhận yêu cầu khởi kiện là không đủ cơ sở để giải quyết vụ án. 

1.4. Nhiều vụ án tranh chấp về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mà bản chất là Hợp đồng giả tạo nhằm che giấu Hợp đồng vay tiền. Tuy nhiên, có trường hợp Tòa án lại công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là không đúng, vi phạm Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về đánh giá chứng cứ. Nguyên nhân là do Tòa án chưa thu thập đầy đủ và chưa xem xét, đánh giá toàn diện chứng cứ để xác định bản chất của giao dịch.

1.5. Có trường hợp đất do cha mẹ nhận chuyển nhượng, nhưng khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND lại cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ gia đình, trong khi con còn nhỏ và không đóng góp công sức gì. Cha mẹ đem thế chấp quyền sử dụng đất này để bảo đảm cho Hợp đồng tín dụng. Có Tòa án cho rằng đất cấp cho hộ gia đình, khi thế chấp không có ý kiến của người con nên xác định Hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu một phần là không đúng. Cũng có trường hợp Tòa án căn cứ vào Sổ hộ khẩu để xác định những thành viên có quyền sử dụng đất để giải quyết cũng là không đúng, mà phải căn cứ vào nguồn gốc, hồ sơ cấp đất của cơ quan có thẩm quyền để xác định ai là chủ thể có quyền sử dụng đất; từ đó, mới có căn cứ để xác định hiệu lực của giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên.

1.6. Đối với vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, trong khi các bên chưa hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần nhưng bên nhận chuyển nhượng đã thực hiện các hoạt động để triển khai đầu tư. Khi có tranh chấp, Tòa án buộc bên chuyển nhượng phải bồi thường khoản tiền đầu tư cho bên nhận chuyển nhượng là không đúng theo thỏa thuận của các bên tại hợp đồng.

2. Về áp dụng pháp luật

2.1. Theo quy định tại điểm a, tiểu mục 2.2, Mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và Điều 17, Điều 18 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện. Ngoài ra, khi giải quyết các vụ án tranh chấp di sản thừa kế đối với bất động sản là nhà ở mà có đương sự ở nước ngoài tham gia thì khoảng thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/9/2006 sẽ không tính vào thời hiệu thừa kế (khoản 2 Điều 39 Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006). Một số Tòa án khi xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế trong trường hợp trên đất có nhà của người để lại di sản hoặc di sản thừa kế là nhà ở mà có đương sự ở nước ngoài tham gia nhưng không trừ đi khoảng thời gian theo quy định nêu trên để tính thời hiệu khởi kiện là không đúng.

2.2. Về vấn đề thế chấp tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất: Theo quy định tại Điều 27, Điều 28 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015; điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất; vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn… phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận… Do đó, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chỉ có chữ ký của vợ hoặc chồng phải xác định vô hiệu toàn bộ. Tòa án các cấp cho rằng do người vợ hoặc chồng không ký vào các hợp đồng thế chấp nên hợp đồng thế chấp vô hiệu một phần đối với phần tài sản của người vợ hoặc chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng là không đúng với quy định tại Điều 27, Điều 28 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

2.3. Một số vụ án tranh chấp chia thừa kế tài sản, Tòa án chia thừa kế theo di chúc nhưng không xem xét quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là vi phạm Điều 669 BLDS 2005. Tòa án chia thừa kế theo pháp luật nhưng không xem xét tính công sức cho người quản lý di sản hoặc việc xem xét công sức chưa tương xứng.

3. Về phá sản và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài

3.1. Đối với việc yêu cầu mở thủ tục phá sản, nhiều hồ sơ cho thấy: Có trường hợp đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nhưng Tòa án không ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản theo Điều 42 Luật Phá sản mà không có lý do. Có trường hợp Thẩm phán chậm chỉ định Quản Tài viên, có trường hợp có căn cứ về việc Quản Tài viên vi phạm nghĩa vụ theo Điều 46 Luật Phá sản nhưng Thẩm phán không đốc thúc hoặc không thay đổi Quản Tài viên.

3.2. Đối với việc yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài: Có nhiều trường hợp Tòa án nhận định cho rằng việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam đối với Phán quyết trọng tài là trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, nhưng Tòa án không chỉ ra nguyên tắc cơ bản nào mà chỉ nhận định chung chung; từ đó quyết định không công nhận Phán quyết trọng tài là không thoả đáng. Ví dụ như: Phán quyết của trọng tài công nhận một hợp đồng có mục đích giả tạo, trốn thuế là trái trật tự công cộng, vi phạm pháp luật hình sự, pháp luật về thuế của Việt Nam. Theo quy định tại điểm d, Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP thì “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam”.  

3.3. Đối với việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài: Có trường hợp vì có căn cứ xác định ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án để yêu cầu hủy phán quyết là đã quá thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết, Tòa án ra quyết định với nội dung đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự là không chính xác; quyết định chính xác phải là không huỷ phán quyết trọng tài theo khoản 5 Điều 71 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010.

3.4. Đối với Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp đã được giải quyết bằng Phán quyết trọng tài của Trung tâm trọng tài thương mại tài chính Ngân hàng Việt Nam, nhưng Tòa án vẫn thụ lý, xem xét, giải quyết yêu cầu của nguyên đơn đối với Hợp đồng thế chấp là vi phạm Điều 6 Luật Trọng tài thương mại và điểm c khoản 1 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự.

4. Một số vấn đề khác

- Giải quyết vụ án không triệt để, tuyên án không rõ ràng, không chính xác dẫn đến không thể thi hành án hoặc khó khăn trong việc thi hành án, nhất là đối tượng phải thi hành là bất động sản (nhà, đất).

- Tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu hoặc giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu không đúng quy định của pháp luật. Ví dụ như xác định giá trị tài sản tranh chấp thấp hơn giá trị thực tế, xác định không đúng mức độ lỗi của các bên....

- Yêu cầu thu thập tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ.

- Có trường hợp hủy án của cấp dưới là không cần thiết, kéo dài tố tụng hoặc căn cứ để hủy án của Tòa án cấp dưới chưa chính xác, không chỉ rõ việc cần phải làm lại những gì để định hướng cho vòng tố tụng sau.

III. Các vấn đề cần rút kinh nghiệm khi soạn thảo, viết Bản án/ Quyết định

1. Viết sai họ tên, địa chỉ hoặc tư cách của đương sự trong vụ án

Hiện nay vẫn còn tồn tại một số Bản án ghi sai họ tên, địa chỉ hoặc tư cách của đương sự; việc sai sót này thường xuất phát từ những nguyên nhân sau:

- Đối với những pháp nhân có nhiều Chi nhánh, Văn phòng đại diện và phát sinh tranh chấp từ giao dịch của Chi nhánh, vẫn còn Bản án ghi tên đương sự là Chi nhánh, nhất là đối với các tổ chức tín dụng.

- Đối với những vụ án phức tạp có nhiều đương sự tham gia tố tụng hoặc những vụ án đương sự trùng tên với nhau nhưng khác họ… thì đòi hỏi khi viết Bản án phải hết sức thận trọng, kiểm tra thật kỹ lưỡng về tên họ của đương sự; có một số trường hợp do thiếu thận trọng, không kiểm tra kỹ nên dẫn đến sai sót tên, họ người này viết nhầm vào tên, họ người kia.

- Đối với việc thay đổi địa giới hành chính, chia tách và sáp nhập đòi hỏi phải có sự tra cứu, kiểm tra để ghi chính xác địa chỉ của đương sự. Đặc biệt lưu ý địa chỉ của đương sự trước ngày 30/6/2025 và sau ngày 01/7/2025 (thời điểm có hiệu lực của việc sáp nhập một số tỉnh, thành phố và xã, phường trên cả nước) để việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự được phù hợp và chính xác.

3. Phần nhận định (xét thấy)

Có một số Bản án viết không chặt chẽ, mạch lạc, thiếu viện dẫn pháp luật, nên còn nhiều trường hợp Bản án viết rất dài nhưng tính thuyết phục không cao. Nguyên nhân là do hạn chế về trình độ, năng lực của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, khả năng áp dụng pháp luật. Để khắc phục thiếu sót này, Thẩm phán cần rèn luyện kỹ năng viết Bản án, khi xét xử vụ án nào thì phải tra cứu đầy đủ các văn bản pháp luật có liên quan, viết ngắn gọn, xúc tích, đủ ý và viện dẫn điều luật cụ thể...

4. Phần nhận định và phần quyết định bỏ sót yêu cầu của đương sự

Đối với những vụ án mà một đương sự có nhiều yêu cầu, vụ án có nhiều nguyên đơn có yêu cầu khác nhau, vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, hoặc vụ án trong quá trình giải quyết đương sự thay đổi yêu cầu… thì tại phiên tòa Hội đồng xét xử phải xác định rõ các yêu cầu của đương sự (xác định riêng yêu cầu của mỗi đương sự); khi nghị án phải xem xét, đánh giá, kết luận riêng đối với từng yêu cầu cụ thể; phần nhận định của Bản án phải đánh giá nhận xét, kết luận riêng biệt đối với mỗi yêu cầu; phần quyết định phải ghi rõ việc xử lý đối với mỗi yêu cầu của đương sự, không được bỏ sót yêu cầu nào.

Tuy nhiên, trong thực tế do không xác định chính xác, đầy đủ các yêu cầu của đương sự, nên nhiều Bản án, phần nhận định và phần quyết định bỏ sót yêu cầu của đương sự, hoặc thiếu thận trọng trong khi viết Bản án; có trường hợp, đã nhận định phân tích, chấp nhận hoặc không chấp nhận một yêu cầu nào đó của đương sự, nhưng phần quyết định thì không nêu giải quyết như thế nào đối với yêu cầu đó.

5. Phần quyết định của Bản án không phù hợp với tình tiết thực tế của vụ án nên khó thi hành hoặc không thể thi hành

Vừa qua, có một số vụ án tuyên án nhưng không thể thi hành được, dẫn đến Tòa án cấp Giám đốc thẩm phải hủy án để xét xử lại, hoặc phải giải thích, đính chính, sửa đổi mới thi hành được. Nguyên nhân là quá trình thẩm định tại chỗ không chính xác, Bản án viết số liệu không chính xác hoặc mô tả đối tượng tranh chấp không đúng với thực tế…

6. Các sai sót khác khi soạn thảo/viết Bản án phúc thẩm

- Trong phần nhận định sao chép lại phần nội dung vụ án làm cho phần nhận định dài dòng, lặp đi, lặp lại nội dung của vụ án.

- Viết ngắn gọn khẳng định ngay Bản án sơ thẩm xử đúng, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát mà không nhận định vì sao Toà án cấp sơ thẩm xử đúng, vì sao lại không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị làm cho Bản án không có tính thuyết phục cao.

- Không nhận định toàn diện các vấn đề có kháng cáo, kháng nghị đối với trường hợp đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị về nhiều điểm thì Tòa án phải nhận định về tất cả những điểm đó; nếu chỉ nhận định một số điểm, còn một số điểm khác không phân tích, không nhận xét mà kết luận ngay: “những kháng cáo, kháng nghị khác không có cơ sở để chấp nhận” là chưa đủ căn cứ.

IV. Dự báo một số tranh chấp phát sinh mới trong thời gian tới

1. Các tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ gắn với trí tuệ nhân tạo

Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, các vấn đề pháp lý phát sinh liên quan đến sở hữu trí tuệ (viết tắt là SHTT) ngày càng trở nên phức tạp. Tòa án nhân dân đóng vai trò là trung tâm trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến SHTT. Tuy nhiên, các quy định hiện hành của pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là khi áp dụng cho các trường hợp liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI).

Thực tế, các tranh chấp SHTT thường liên quan đến bản quyền, sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp… Nhưng với sự tham gia ngày càng lớn của công nghệ AI trong sáng tạo nội dung, thiết kế sản phẩm hay phát minh kỹ thuật, việc xác định chủ thể quyền SHTT và trách nhiệm pháp lý trở nên khó khăn hơn. Tòa án thường gặp khó khăn trong việc xác định như AI có được coi là chủ thể sáng tạo hay không, trách nhiệm thuộc về người vận hành, phát triển hay đào tạo AI và hành vi vi phạm SHTT do AI gây ra sẽ xử lý theo cơ chế nào? Pháp luật hiện hành như Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật Dân sự, Luật Công nghệ cao…. chưa cập nhật kịp với thực tiễn công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay.

Do đó, việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến SHTT, đặc biệt là liên quan đến trí tuệ nhân tạo đang đặt ra nhiều thách thức cho hệ thống pháp luật và hoạt động xét xử của Tòa án. Việc hoàn thiện khung pháp lý không chỉ giúp tăng cường hiệu quả giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế và đổi mới sáng tạo.

2. Các tranh chấp liên quan đến công nghệ số

Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì các lĩnh vực mới như tranh chấp tài sản ảo, hợp đồng điện tử, giao dịch trên không gian mạng ngày càng trở nên phức tạp. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành chưa dự liệu hết để điều chỉnh như đã nêu trên. Do đó cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, có các hướng dẫn rõ ràng về bằng chứng điện tử, giao kết online để làm căn cứ giải quyết khi phát sinh tranh chấp.

3. Tranh chấp liên quan đến việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất

Các tranh chấp thường gặp phát sinh chủ yếu do nguyên nhân góp vốn bằng quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện pháp lý (đất chưa được cấp GCNQSDĐ, đang tranh chấp …); tranh chấp do không thực hiện thủ tục đăng ký biến động sang tên cho bên nhận góp vốn, khi phát sinh lợi ích dẫn đến tranh chấp; tranh chấp về giá trị góp vốn vì bên góp vốn cho rằng giá trị đất bị định giá thấp, không tương xứng với tỷ lệ vốn góp; hoặc một bên không thực hiện cam kết góp vốn, đất góp vốn bị thu hồi hoặc nằm trong quy hoạch, người góp vốn không có toàn quyền định đoạt (tài sản chung vợ chồng nhưng một bên tự ý đem góp vốn)… Để giải quyết các vấn đề này, Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết trong từng trường hợp cụ thể.   

V. Giải pháp khắc phục

- Nâng cao năng lực trình độ, đạo đức công vụ và đôn đốc kiểm tra, giám sát, nâng cao kỷ cương, kỷ luật Đảng, tính chịu trách nhiệm của cán bộ, Thẩm phán tại Tòa án khu vực. Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ đối với Tòa án khu vực trong việc giải quyết án.

- Chú trọng công tác tập huấn theo từng chuyên đề riêng biệt để hướng dẫn cán bộ, Thẩm phán nâng cao năng lực, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại. Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu để cập nhật các văn bản mới, kiến thức mới, xu hướng hội nhập quốc tế, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và chuyển đổi số theo tinh thần Nghị quyết số 57/NQ-TW của Bộ Chính trị, đảm bảo việc xét xử là hợp tình, hợp lý, hợp pháp, tạo sự đồng thuận của xã hội và niềm tin của nhân dân vào công lý.

- Định kỳ 06 tháng/lần tổng kết thực tiễn xét xử, thống nhất đường lối áp dụng pháp luật, qua đó Thẩm phán nhận thức rõ những sai sót, vi phạm trong giải quyết từng vụ án; từ đó trau dồi, học hỏi những kinh nghiệm, kiến thức để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án, hạn chế các vụ việc phải hủy, sửa. Đồng thời, đảm bảo việc Tòa án cấp trên hủy án, sửa án của Tòa án cấp dưới là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

- Các trường hợp vụ án khó, phức tạp hoặc có vướng mắc thì đưa ra tập thể lãnh đạo, Ủy ban Thẩm phán họp bàn, thống nhất hoặc xin ý kiến Hội đồng Thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về đường lối giải quyết.

- Phối hợp với các cơ quan, ban ngành liên quan như địa chính, Ủy ban nhân dân, công an địa phương để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình tố tụng như xem xét thẩm định tại chỗ, định giá, xác minh thu thập chứng cứ, đương sự không hợp tác, chống đối… tránh việc không thu thập được tài liệu chứng cứ đầy đủ dẫn đến không đủ cơ sở để giải quyết vụ án, án bị hủy do không tuân thủ quy định của pháp luật về xem xét, thẩm định giá.

- Đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ thẩm phán về công nghệ AI và các vấn đề pháp lý liên quan đến SHTT.

- Tăng cường hợp tác giữa các cơ quan chức năng, viện nghiên cứu, các chuyên gia kỹ thuật để hỗ trợ trong quá trình xét xử và giám định.

- Nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng chính sách pháp luật điều chỉnh trong các tranh chấp phát sinh liên quan đến công nghệ cao.

Trên đây là, một số nội dung rút ra từ thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, nhằm nâng cao chất lượng công tác chuyên môn; đồng thời nhận diện và dự báo sớm những tranh chấp có thể phát sinh trong thời gian tới. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong hoạt động xét xử và giải quyết các vụ việc, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức cần tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp, chủ động cập nhật các quy định pháp luật mới và tăng cường kỹ năng giải quyết các tình huống phát sinh trong thực tiễn.

Tiến sĩ Đỗ Thị Hải Yến Vụ trưởng Vụ Giám đốc kiểm tra về dân sự TANDTC

Ảnh minh họa/Khải Hoàn.