Thực trạng giải quyết yêu cầu nuôi con chung trong các vụ án hôn nhân gia đình và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả nêu và phân tích những quy định pháp luật có liên quan đến một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về vấn đề nuôi con chung trong các vụ án ly hôn, chỉ ra một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.

1. Quy định của pháp luật

Pháp luật hiện hành về giải quyết vấn đề nuôi con chung trong các vụ án hôn nhân gia đình được quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành có một số quy định liên quan như sau:

Khoản 1 Điều 88 Luật HNGĐ năm 2014 xác định về con chung như sau: Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Căn cứ xác định con chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật mang tính suy đoán pháp lý, theo đó chỉ cần con được thành thai, sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của hai vợ chồng hoặc được cha, mẹ thừa nhận sẽ được xác định là con chung của vợ chồng. Do vậy, để xác định con chung, Tòa án sẽ căn cứ vào giấy khai sinh của con và giấy đăng ký kết hôn cũng như sự xác nhận con chung của hai vợ chồng. Nhưng trong trường hợp người cha không chấp nhận con của vợ mình thành thai, sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của hai vợ chồng là con đẻ của mình, Tòa án sẽ phải yêu cầu đương sự chứng minh quan hệ huyết thống cha con giữa đương sự và con của vợ theo quy định của pháp luật, cụ thể: “Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định”[1]. Nếu không chứng minh được yêu cầu của mình, đương sự vẫn sẽ đương nhiên có quan hệ cha con với con của người vợ[2].

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật HNGĐ năm 2014 về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau: nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Như vậy, theo các quy định nêu trên thì khi vợ chồng tiến hành ly hôn tại Tòa án, bất kể là thuận tình ly hôn hay đơn phương ly hôn thì việc xem xét nguyện vọng của con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên là thủ tục bắt buộc mà Tòa án phải thực hiện.

Hay theo quy định khoản 3 Điều 208 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên, …”.

Theo Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, tại Điều 6. Giải quyết việc nuôi con khi ly hôn quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định như sau:

“1. Khi xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con” quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình phải đánh giá khách quan, toàn diện các tiêu chí sau đây: g) Nguyện vọng của con được sống chung với cha hoặc mẹ”.

Xuất phát từ những quy định này đã dẫn đến trong xét xử các vụ án hôn nhân gia đình có tranh chấp về việc nuôi con chung từ đủ 7 tuổi, Tòa án bắt buộc phải lấy ý của con chung để xem xét giao con cho một bên cha hoặc mẹ nuôi dưỡng nếu không lấy ý kiến con chung mà tiến hành xét xử giao con chung cho một bên cha hoặc nuôi dưỡng đều đó sẽ dẫn đến vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng.

Ngoài ra, trong vụ án hôn nhân gia đình, quan hệ con chung là quan hệ bắt buộc phải giải quyết trong vụ án do có những tính chất đặc thù riêng chỉ có thể giao con cho một trong hai bên nuôi dưỡng con chung không phụ thuộc vào đương sự có yêu cầu hay không yêu cầu. Tòa án phải xem xét về điều kiện mọi mặt của một trong hai bên để giao con cho một bên nuôi dưỡng nhằm tạo điều kiện cho con phát triển tốt nhất.

2. Thực tiễn áp dụng pháp luật

2.1. Về không xác định được con chung đang ở đâu

Hiện nay, trong một số vụ án hôn nhân gia đình, Tòa án thụ lý có trường hợp không biết người con chung đang ở đâu (bao gồm cả trường hợp con chung dưới 07 tuổi và từ 07 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi). Trong thực tiễn xét xử, giải quyết loại án này còn có nhiều quan điểm khác nhau, cũng như đường lối của các Tòa án chưa thống nhất. Có quan điểm cho rằng, trong trường hợp này Tòa án không giải quyết vấn đề con chung, có trường hợp Tòa án đình chỉ vấn đề con chung, không giải quyết, có nơi Tòa án giao cho một trong các bên tiếp tục nuôi dưỡng. Tác giả xin đưa ra ví dụ sau để làm rõ vấn đề:

Vụ án thứ nhất: Bản án số: 08/2020/HNGĐ-PT Ngày 18/08/2020 Tòa án nhân dân tỉnh H, về việc Tranh chấp xin ly hôn”.

Nội dung vụ án: Ngày 06/02/2020, chị Hà Thị Ph đã bị Tòa án nhân dân huyện PĐ tuyên bố mất tích theo Quyết định số 01/2020/QĐST-DS. Khi chị Ph bỏ nhà đi đã đưa cháu Lan A đi cùng khi cháu chưa được 01 tuổi. Từ đó cho đến nay, anh S không có thông tin gì về chị Ph và cháu Lan A, nên anh S yêu cầu Tòa án tiếp tục giao việc nuôi con cho chị Ph. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, anh S đã rút yêu cầu về việc giải quyết con chung.

 Tại Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 42/2020/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 5 năm 2020, Toà án nhân dân huyện PĐ, tỉnh H đã: Đình chỉ một phần yêu cầu xem xét nuôi con của anh Lê S.

Ngày 28/5/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện PĐ có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 199/QĐKNPT-VKS-DS ngày 28/5/2020, kháng nghị đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 42/2020/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện PĐ, tỉnh H, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Quan điểm của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận định: Đối với cháu Lê Thị Lan A đã đi cùng với chị Ph từ nhiều năm nay không có thông tin gì, nên không thể tiến hành lấy lời khai để xác định nguyện vọng của cháu Lan A được; trường hợp sau này có tranh chấp về nuôi con thì các bên đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ án khác. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ và không giải quyết phần nuôi con chung trong cùng vụ án này theo yêu cầu của anh S là phù hợp, không vi phạm khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 1, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát và ý kiến phát biểu quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm”[3].

Vụ án thứ hai: Theo nội dung Bản án số 04/2018/HNGĐ-ST ngày 16/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện ĐT, tỉnh L, về việc: Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung”. Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Trịnh Khắc M thấy rằng, về con chung: Quá trình anh M và chị T chung sống có 02 con chung tên Trịnh Phương L, sinh ngày 22/12/2007 và Trịnh Phương Tr, sinh ngày 16/6/2012. Từ khi chị T bỏ đi đã mang theo hai con chung không có tin tức gì. Khi ly hôn anh M yêu cầu giao chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con chung cho đến ngày các con chung đủ 18 tuổi. Anh M không cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy từ tháng 02 năm 2014 khi chị T bỏ đi đã dắt theo 02 con chung nên cần tiếp tục giao chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai con chung cho đến ngày các con chung đủ 18 tuổi. Anh M không cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại khoản khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.  

Vụ án thứ ba: Tòa án nhận định anh Mùa A T và chị Tráng Thị V có 04 con chung là Mùa A P, sinh năm 1997, Mùa A T, sinh năm 2000, Mùa Thị D, sinh năm 2002 và Mùa Thị Thanh X, sinh ngày 17/02/2004. Xét thấy 03 con chung P, T, D đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và con chung Mùa Thị Thanh X chưa đủ 18 tuổi nhưng đã bị Tòa án tuyên bố mất tích theo quyết định giải quyết việc dân sự số: 05/2021/QĐST-DS ngày 17/6/2021 nên không xem xét trách nhiệm nuôi con chung đối với anh Mùa A T[4].

Nhận xét: Có quan điểm cho rằng, “Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn của một bên đối với một người đã bị tuyên bố mất tích; đối với người đó khi bỏ đi cũng đã đem con chưa thành niên đi theo (chưa tròn 01 tuổi) và đứa con cũng không có thông tin gì khi nguyên đơn yêu cầu giải quyết ly hôn. Do đó, việc Tòa án giải quyết triệt để nội dung vụ án trong các mối quan hệ (hôn nhân, con cái, tài sản...) chỉ đặt ra khi có tranh chấp và khi có đầy đủ các bên đương sự hoặc đề nghị giải quyết vắng mặt theo yêu cầu của các bên. Đối với cháu Lê Thị Lan A đã đi cùng với chị Ph từ nhiều năm nay không có thông tin gì, nên không thể tiến hành lấy lời khai để xác định nguyện vọng của cháu Lan A được; trường hợp sau này có tranh chấp về nuôi con thì các bên đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ án khác”[5]. Ngoài ra, cũng có nhiều quan điểm, ý kiến ủng hộ nhận định này hoàn toàn đúng, chúng ta không thể cứng nhắc áp dụng những quy định chung để giải quyết vấn đề con chung trong vụ án ly hôn với một bên mất tích, Tòa án càng không thể tiến hành lấy lời khai của người con để xác định nguyện vọng của cháu được; trường hợp sau này có tranh chấp về nuôi con thì các bên đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ án khác, việc không cần thiết lấy lời khai và giành quyền khởi kiện thành một vụ án khác là điều hoàn toàn hợp lý. Do đó, theo quan điểm này thì trong thời gian tới cần phát triển hướng giải quyết trong vụ án này thành án lệ hoặc Tòa án ban hành văn bản theo hướng, trong trường hợp ly hôn thì khi người mất tích dẫn con chung theo thì Tòa án không cần thiết phải lấy lời khai và đình chỉ giải quyết vấn đề con chung, trường hợp sau này có tranh chấp về nuôi con thì các bên đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ án khác. Hướng này sẽ hợp lý hơn, khắc phục được những thiếu sót của luật[6].

Qua các quan điểm, ý kiến trên, chúng tôi cho rằng, có thể thấy cùng một vụ việc nhưng hướng giải quyết của các Tòa án lại khác nhau có nơi Tòa án đình chỉ (theo vụ án thứ nhất và thứ ba), có nơi Tòa án giao cho người đang quản lý con tiếp tục nuôi dưỡng. Về vấn đề này, nhóm tác giả cho rằng, giao con cho người trực tiếp nuôi con tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Ngoài ra, tác giả cũng ủng hộ quan điểm, không cần thiết phải lấy ý kiến con chung khi con từ đủ 07 tuổi khi con chung biệt tích, việc nhận định này là gập khuôn và không phù hợp.

2.2. Về trường hợp có con với người khác trong quá trình Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn

Theo quy định khoản 3 Điều 51 Luật HNGĐ năm 2014:Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.

Còn theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết: 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định thì: “3. Chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình chỉ thai nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này”.

Tuy nhiên, trường hợp trên chỉ áp dụng đối với người chồng có yêu cầu ly hôn, còn nếu như người vợ có yêu cầu ly hôn khi đang mang thai thì Tòa án vẫn thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.

Vấn đề đặt ra trong trường hợp này là người vợ có yêu cầu ly hôn nhưng đang mang thai có con chung với người khác không phải là người chồng thì Tòa án sẽ xử lý như thế nào? Và nếu như trong quá trình nộp đơn đến Tòa án, người vợ chỉ mới mang thai và đến ngày xét xử người vợ đã sinh con chung xong thì Tòa án có xem xét đối với người con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hay không?. Vấn đề này còn có nhiều quan điểm khác nhau về pháp luật nội dung và tố tụng cụ thể:

Có quan điểm cho rằng: Trong trường hợp này, Tòa án chỉ thụ lý theo yêu cầu của nguyên đơn, chỉ xem xét đối với một người con chung, không xem xét đối với người con chung thứ hai?

Quan điểm khác lại cho rằng: Trong trường hợp này, về nguyên tắc Tòa án phải giải quyết luôn vấn đề con sinh ra trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án vì con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung vợ chồng.

Ví dụ: vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 424/2023/TL-HNGĐST, về việc “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung” ngày 10 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y.

Nội dung vụ án: Vào năm 2019 được sự đồng ý của gia đình hai bên, chị T và anh L thành lập gia đình với nhau trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Lâm, huyện HĐ, tỉnh KG vào ngày 03/2/2021.                                                             

Trong thời gian chung sống, chị và anh L có 01 con chung tên Lê Võ Ái L, sinh ngày 03/6/2020 có 01 con chung tên Lê Võ Ái L, sinh ngày 03/6/2020. Chị T đồng ý giao con chung tên Lê Võ Ái L, sinh ngày 03/6/2020 cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, chị T đã sinh một người con tên A với anh H, không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề con chung đối với cháu A.

Nhận xét: Trong vụ án này có 01 con chung tên Lê Võ Ái L, sinh ngày 03/6/2020. Chị T đồng ý giao con chung tên Lê Võ Ái L, sinh ngày 03/6/2020 cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, đối với cháu A không phải con chung của con chị T và anh L, có một số ý kiến cho rằng cần đưa vào giải quyết, có một số quan điểm cho rằng không cần thiết, do đây là sự thật khách quan, và các bên đương sự đã thừa nhận trong vụ án. Qua nội dung vụ án hiện nay có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này. Tuy nhiên, theo nhóm tác giả, để giải quyết vụ án cần căn cứ vào bản chất vụ việc, nếu như các bên đương sự đã thừa nhận, thì không cần xét nghiệm ADN hay xác định cha cho con, chỉ cần giải quyết vấn đề con chung, còn đối với người con riêng thì sau khi có bản án/quyết định của Tòa án các bên đi đăng ký khai sinh theo quy định, hướng giải quyết này hiệu quả và phù hợp với sự thật khách quan của vụ án. Không gập khuôn máy móc khi áp dụng pháp luật.

2.3. Có kết luận ADN không phải con chung của vợ chồng

Vấn đề sau khi giải quyết vụ án ly hôn, có yêu cầu công nhận sự thỏa thuận nhưng sau đó, có kết quả giám định ADN nghi ngờ không phải con chung nên thực hiện giám định thì Tòa án sẽ giải quyết như thế nào, hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể.

Có quan điểm cho rằng, Tòa án sẽ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm để hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quan điểm khác lại cho rằng, Tòa án sẽ yêu cầu đương sự khởi kiện thành vụ kiện khác.

Ví dụ: Quyết định tái thẩm số 08/2025/HNGĐ-TT ngày 11/3/2025 về việc ly hôn của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H.

Nội dung vụ án: Bà và ông G đăng ký kết hôn ngày 13/5/2015 tại Ủy ban nhân dân xã TM, huyện T, tỉnh VL. Do mâu thuẫn vợ chồng nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông G. Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung là Nguyễn Hoàng Gia H, sinh ngày 08/01/2017, bà yêu cầu được nuôi cháu H và ông G cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn quyết định (tóm tắt): Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Trần Bích T và ông Nguyễn. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hoàng Gia H, sinh ngày 08/01/2017 cho bà Trần Bích T tiếp tục nuôi dưỡng, ông Nguyễn Văn G có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi (thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày 11/8/2017) và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Ông G cung cấp kết quả phân tích ADN huyết thống số VF081_23.M1D ngày 29/7/2023 của Công ty TNHH MTV Thương mại và Dịch vụ DNA TS kết luận: “Người có mẫu ADN ký hiệu B3020PA 23.M (Nguyễn Văn G) và người có mẫu ADN ký hiệu C3020PA 23.NM (Nguyễn Hoàng Gia H) không cùng huyết thống cha – con”. Đây là tình tiết mới được quy định tại khoản 1 Điều 352 của Bộ luật Tố tụng dân sự mà khi giải quyết vụ án thì Tòa án và các đương sự đều không biết; từ đó, Tòa án nhân dân huyện T căn cứ Giấy khai sinh của cháu H cũng như lời trình bày của các đương sự để ghi nhận cháu H là con chung của bà T và ông G.

Nhận xét: Bản án trên vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Tại Quyết định số 18/2024/KN-HNGĐ ngày 25/11/2024, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự; Vì vậy, cần chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H, hủy Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 206/2017/QĐST-HNGĐ ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh VL về phần con chung để giải quyết sơ thẩm lại theo thủ tục chung.

Có quan điểm cho rằng: “khi cha hoặc mẹ có nghi ngờ con mình không hoặc có quan hệ huyết thống thì có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác, yêu cầu Tòa án giải quyết về việc cha, mẹ không thừa nhận con; xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ, trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con... Sau đó Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ là kết luận giám định tư pháp được thực hiện theo đúng thủ tục tố tụng và Luật giám định tư pháp để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nêu trên”[7].

Ngoài ra còn có nhiều quan điểm khác[8] cho rằng đây là tình tiết mới được phát hiện, làm thay đổi cơ bản nội dung của Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự mà các đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, Viện kiểm sát đã kháng nghị đối với Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.

Qua các quan điểm nêu trên, nhóm tác giả cho rằng: Trong trường hợp này Tòa án hủy quyết định công nhận thuận tình ly hôn là phù hợp, bởi các lý do sau đây: Thứ nhất, đây là tình tiết mới được phát hiện, làm thay đổi cơ bản nội dung của Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự mà các đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án là căn cứ để hủy quyết định; Thứ hai, khi hủy quyết định giao về cho Tòa án giải quyết thì sẽ khôi phục lại trạng thái cân bằng ban đầu, chẳng hạn như cấp dưỡng nuôi con, thừa kế vv…mà hậu quả pháp lý của quyết định công nhận thuận tình ly hôn ban đầu mang lại. Thứ ba, về bản chất nếu như chúng ta không hủy quyết định này, các bên đương sự yêu cầu một vụ án khác, xác định cha hoặc mẹ cho con, thì sau này chúng ta cũng phải xem xét đến hiệu lực pháp lý của quyết định công nhận thuận tình ly hôn đang có hiệu lực. Do đó, việc hủy quyết định công nhận thuận tình ly hôn giao về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại là phù hợp. Trong trường hợp các bên đã có căn cứ về xét nghiệm ADN có thể yêu cầu xác định cha hoặc mẹ cho con, sau đó Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án, khi có kết quả của việc giải quyết vấn đề con chung thì Tòa án giải quyết vấn đề ly hôn theo thủ tục chung và hướng xử lý trong trường hợp này là phù hợp và đúng theo quy định pháp luật.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết con chung khi không biết con chung đang ở đâu

Tác giả kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao nên có văn bản hướng dẫn theo hướng: Trong trường hợp con đi với người cha hoặc mẹ đã mất tích mang con theo, Tòa án không xác định được hiện nay con chung đang ở đâu thì tiếp tục giao cho người đang chăm sóc, nuôi dưỡng, nếu sau này các bên có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ kiện khác nếu có yêu cầu. Việc yêu cầu giải quyết vấn đề con chung, cũng như lấy ý kiến của con chung từ 07 tuổi trở lên trong trường hợp không xác định tin tức của con chưa thành niên như các vụ án thông thường là không cần thiết.

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trường hợp có con chung với người khác trong thời kỳ hôn nhân.

Theo tác giả, để giải quyết vụ án cần căn cứ vào bản chất vụ việc, nếu như các bên đương sự đã thừa nhận, thì không cần xét nghiệm ADN hay xác định cha cho con, chỉ cần giải quyết vấn đề con chung, còn đối với người con riêng thì sau khi có bản án/quyết định của Tòa án các bên đi đăng ký khai sinh theo quy định, hướng giải quyết này hiệu quả và phù hợp với sự thật khách quan của vụ án. Không máy móc khi áp dụng pháp luật.

Về bản chất: Trong trường hợp này, cũng không phải con chung của vợ chồng, nên không cần phải xem xét giải quyết trong cùng vụ án.

3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tái thẩm khi không biết con chung của ai

Tác giả kiến nghị trong trường hợp này, nên kháng nghị theo thủ tục tái thẩm để hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận.

Việc hủy quyết định công nhận thuận tình ly hôn giao về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại là phù hợp. Trong trường hợp các bên đã có căn cứ về xét nghiệm ADN có thể yêu cầu xác định cha hoặc mẹ cho con, sau đó Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án, khi có kết quả của việc giải quyết vấn đề con chung thì Tòa án giải quyết vấn đề ly hôn theo thủ tục chung và hướng xử lý trong trường hợp này là phù hợp với sự thật khách quan của vụ án và đúng theo quy định pháp luật.

 

TS. LÝ VĂN TOÁN (Thẩm phán TAND khu vực 4 - An Giang) - ThS. VÕ NGUYỄN KHÁNH HUYỀN (Trường Đại học Văn Hiến) - ThS.LS. VÕ THÀNH TRUNG (Công ty Luật Asia Law)

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

4. Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.


[1] Khoản 2 Điều 88 Luật HNGĐ năm 2014.

[2] Đào Chúc Phương (2023), Ly hôn với người mất tích theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.23.

[3] Bản án phúc thẩm số 08/2020/HNGĐ-PT, ngày 18/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về việc “Tranh chấp xin ly hôn”.

[4] Bản án số 05/2021/HNGĐ-ST Ngày 16 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu về việc: “tranh chấp xin ly hôn”.

[5] Bản án phúc thẩm số 08/2020/HNGĐ-PT, ngày 18/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, về việc: “Tranh chấp xin ly hôn”.

[6] Đào Chúc Phương (2023), tlđd, tr.29.

[7] Lê Đức Anh (2024), “Bàn về hủy quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự về phần con chung và cấp dưỡng nuôi con chung do có kết luận giám định AND”, https://tapchitoaan.vn/ban-ve-huy-quyet-dinh-cong-nhan-thuan-tinh-ly-hon-va-su-thoa-thuan-cua-cac-duong-su-ve-phan-con-chung-va-cap-duong-nuoi-con-chung-do-co-ket-luan-giam-dinh-adn12673.html, truy cập ngày 02/8/2025.

[8] PV (2023), “Kết quả giám định ADN và quyết định kháng nghị tái thẩm”, https://baovephapluat.vn/vien-kiem-sat-khang-nghi-kien-nghi/ket-qua-giam-dinh-adn-va-quyet-dinh-khang-nghi-tai-tham-146632.html, truy cập ngày 07/8/2025.

TAND Tp Cần Thơ xét xử vụ án “Tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản chung” - Ảnh: Hầu Thị Bích Thủy.