Xây dựng Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, việc xây dựng Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Đồng thời, đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của hệ thống Tòa án hiện nay và để tiếp thu những thành tựu khoa học tiến bộ cho thấy, cần thiết phải sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân để Tòa án thực hiện đầy đủ chức năng “là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”[1] và tạo hành lang pháp lý cần thiết, bố trí các điều kiện bảo đảm cho các Tòa án hoàn thành nhiệm vụ được giao, từ đó nâng cao vị thế, uy tín, tạo điều kiện để Tòa án Việt Nam phát triển ngang tầm với trình độ phát triển chung của các Tòa án trong khu vực và trên thế giới.
Đặt vấn đề
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (sau đây gọi là Nghị quyết số 27-NQ/TW) và các nghị quyết, văn kiện của Đảng[2] đã đề ra nhiều nhiệm vụ[3], giải pháp[4] về cải cách tư pháp, cần phải thể chế hóa để đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Tại Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm 2019, Đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo “tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong Tòa án. Chủ động nghiên cứu và sẵn sàng ứng phó với những vấn đề đặt ra cho Tòa án trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng và kinh tế số phát triển mạnh mẽ”; “các Tòa án phải sắp xếp lại tổ chức tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn”.
Tổng kết thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cho thấy bên cạnh những thành tựu đạt được[5], vẫn còn tồn tại những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật, như: (1) Nhận thức về vị trí, vai trò của Tòa án là “cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp” chưa thực sự phù hợp, thống nhất dẫn tới việc xác định chưa đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án; (2) Các Tòa án chưa hoàn toàn được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử; (3) Việc tổ chức các đơn vị và nhân lực giúp việc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao chưa hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu; (4) Nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc phân chia các ngạch Thẩm phán chưa phù hợp với thực tiễn xét xử tại các Tòa án; (5) Chức năng, nhiệm vụ, thành phần của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia chưa hợp lý; (6) Chế độ trách nhiệm, kỷ cương kỷ luật cần tăng cường hơn; (7) Chưa có cơ chế pháp lý đầy đủ để xây dựng và triển khai Tòa án điện tử; (8) Thiếu cơ chế hiệu quả bảo vệ cho các Thẩm phán, Tòa án;…
Bên cạnh đó, hệ thống Tòa án nhân dân đang đứng trước những thách thức lớn như: yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao, trách nhiệm ngày càng lớn; số lượng vụ, việc phải giải quyết ngày càng tăng, với tính chất ngày càng đa dạng, phức tạp; yêu cầu nội luật hóa cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài phát sinh nhiều vấn đề mới;… Thực trạng đó đang đặt ra yêu cầu phải nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động, đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Tòa án điện tử.
1. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo
Việc đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân (TAND) cần bảo đảm tinh gọn về cơ cấu tổ chức, nâng cao chất lượng xét xử, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp cũng như uy tín của TAND với vai trò là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao thực hiện “quyền tư pháp”. Đồng thời, xây dựng hệ thống TAND chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, hoàn thành trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân[6].
Để đạt được mục tiêu trên, cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau:
Một là, việc đổi mới tổ chức bộ máy TAND phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng; thực hiện được những chủ trương cốt lõi đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết về cải cách tư pháp.
Hai là, đổi mới tổ chức bộ máy phải bảo đảm cho TAND hoạt động độc lập, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; kế thừa những thành tựu đã đạt được trong nhiều năm qua; khắc phục những hạn chế, bất hợp lý, khó khăn trong thực tiễn; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với điều kiện của nước ta để xây dựng nền tư pháp Việt Nam tương đồng với mức độ phát triển chung của thế giới.
Ba là, đổi mới tổ chức bộ máy phải gắn với đổi mới hoạt động, phương thức lãnh đạo, cải cách chế độ tiền lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút và phát huy năng lực người có đức, có tài; bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những người bị ảnh hưởng từ việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy.
Bốn là, các giải pháp đổi mới bộ máy phải bảo đảm khoa học, có cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn. Việc tiến hành đổi mới phải có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Đối với những vấn đề đã rõ thì thực hiện ngay; vấn đề mới cần nghiên cứu kỹ, tham khảo ý kiến của các cơ quan liên quan, triển khai thí điểm, tạo cơ sở đề xuất, tham mưu với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư để có quyết sách phù hợp trong tổng thể Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm là, bảo đảm sự thống nhất về nhận thức, phương châm hành động trong toàn hệ thống về đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án, trong đó làm tốt công tác tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của việc đổi mới, tinh gọn tổ chức bộ máy; tăng cường tuyên truyền, quán triệt, tạo sự đồng thuận trong cấp ủy, lãnh đạo Tòa án các cấp, sự ủng hộ của các cơ quan, tổ chức liên quan nói riêng và Nhân dân nói chung.
2. Định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án đang được Tòa án nhân dân tối cao tích cực triển khai thông qua việc xây dựng dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Dự án đã được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV và dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 vào tháng 6/2024 với những nội dung sửa đổi, bổ sung lớn như:
2.1. Về Tòa án thực hiện quyền tư pháp
Để cụ thể hóa quy định tại khoản 1 Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; đồng thời thể chế hóa nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra “xác định thẩm quyền của Tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp”, dự thảo Luật Tổ chức TAND (sau đây gọi tắt là Dự thảo) bổ sung quy định: “Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp bao gồm quyền xét xử, quyết định về các tranh chấp, vi phạm pháp luật, về những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của luật; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”.
2.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án
Thứ nhất, Dự thảo bổ sung 02 nhiệm vụ, quyền hạn mới cho Tòa án, đó là: (1) Giải quyết, xét xử vi phạm hành chính theo quy định của luật; (2) Giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử. Trong đó, điểm b khoản 2 Điều 3 và khoản 3 Điều 27 Dự thảo quy định: “Tòa án có thẩm quyền xét xử vi phạm hành chính theo quy định của luật” nhằm thể chế hóa nhiệm vụ, giải pháp “mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính” được Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra. Việc quy định như trên không làm thay đổi chức năng, nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính của các cơ quan nhà nước khác. Tòa án chỉ xử lý vi phạm hành chính trong bốn trường hợp[7] đang được luật quy định và sẽ mở rộng thẩm quyền thực hiện thêm nhiệm vụ khác khi được Quốc hội giao trong luật (luật giao nhiệm vụ nào thì Tòa án thực hiện thêm nhiệm vụ đó), bảo đảm tính khả thi và phù hợp với nguồn lực của Tòa án.
Điều 3 và Điều 31 Dự thảo quy định Tòa án có nhiệm vụ “giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử”, thực chất là giải thích, làm rõ của Hội đồng xét xử trong bản án về lý do áp dụng điều luật cụ thể, trong hoàn cảnh, tình huống của vụ án. Quy định này không trùng lấn, không xung đột với thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đây là nhiệm vụ mà tất cả các Hội đồng xét xử đang thực hiện từ trước đến nay khi xét xử các vụ án. Việc luật hóa nhiệm vụ đang thực hiện trên thực tiễn này nhằm ràng buộc cao hơn trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong mỗi phán quyết tư pháp.
Thứ hai, Dự thảo sửa đổi theo hướng bỏ quy định Tòa án có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự tại phiên tòa. Trường hợp tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì thực hiện quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tòa án là cơ quan xét xử, nếu Tòa án ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự, sau đó lại xét xử vụ án do mình khởi tố sẽ không thể hiện được tính vô tư, khách quan, không phù hợp với nguyên tắc tranh tụng và làm thay cơ quan hành pháp.
Thứ ba, Dự thảo điều chỉnh lại nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ. Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ trong một số trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, việc Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ đã vi phạm các nguyên tắc tư pháp phổ quát, quan trọng, như: nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, nguyên tắc vô tư, khách quan, công bằng trong hoạt động tố tụng...; Tòa án thu thập chứng cứ, sau đó lại xét xử theo chứng cứ tự mình thu thập có thể sẽ không khách quan, không đánh giá đầy đủ các nguồn chứng cứ khác do các bên thu thập.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu “nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”; “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá”. Đồng thời, trong mô hình tố tụng tranh tụng thì việc cung cấp chứng cứ là trách nhiệm của các bên, Tòa án không phải là một bên trong tranh tụng nên việc Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ là không phù hợp với nguyên tắc tranh tụng, ảnh hưởng đến tính vô tư, khách quan khi giải quyết vụ án, vụ việc. Như vậy, Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu phải làm rõ: Tòa án thu thập chứng cứ có phù hợp với tính chất hoạt động của Tòa án hay không; việc khởi tố vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay không, để quyết định bỏ hay giữ thẩm quyền thu thập chứng cứ của Tòa án.
Kết quả tổng kết thực tiễn xét xử thời gian qua, nghiên cứu lý luận và tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong bối cảnh hiện nay không nên quy định Tòa án có trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ trong giải quyết vụ án, vụ việc. Vì vậy, cần điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án theo hướng:
- Trong vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác, các bên thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án theo quy định của pháp luật. Tòa án hướng dẫn, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác.
- Tòa án yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật khi có yêu cầu của Tòa án.
- Tòa án hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ bằng việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật trong trường hợp các bên đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhưng không thu thập được tài liệu, chứng cứ và đề nghị Tòa án hỗ trợ.
- Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ bằng việc tiếp nhận tài liệu, chứng cứ do cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp, các bên giao nộp.
- Tòa án kiểm tra, thẩm định tính xác thực của tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp, các bên giao nộp, làm rõ tại phiên tòa, phiên họp theo quy định của pháp luật và kết quả tranh tụng để xét xử, giải quyết vụ án, vụ việc.
Việc điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án như trên sẽ bảo đảm để Tòa án luôn giữ vai trò là trọng tài và phán xử trên cơ sở chứng cứ mà các bên đưa ra, thực sự tôn trọng và bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc vô tư, khách quan và nguyên tắc “việc dân sự cốt ở đôi bên”.
2.3. Về hoàn thiện tổ chức bộ máy của Tòa án
Thứ nhất, cần tổ chức lại bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao để bảo đảm tính khoa học, phù hợp với quy trình tố tụng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị giúp việc về chuyên môn, nghiệp vụ cho Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao. Dự thảo quy định rõ về đơn vị giúp việc cho Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm các vụ và tương đương (đơn vị cấp vụ loại 2) để tương thích với tổ chức bộ máy giúp việc của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao hiện nay.
Thứ hai, đổi mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện về thẩm quyền xét xử theo hướng tổ chức Tòa án nhân dân cấp tỉnh thành Tòa án nhân dân phúc thẩm, Tòa án nhân dân cấp huyện thành Tòa án nhân dân sơ thẩm. Việc này là cần thiết với các lý do:
(1) Việc đổi mới này là để thể chế hóa yêu cầu của Đảng được xác định trong các văn kiện, như:
- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu “Thống nhất nhận thức về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: … độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…”; “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”;“Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử”.
- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đề ra định hướng “Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân, bảo đảm toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của toà án sơ thẩm và toà án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử.”
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra nhiệm vụ: “Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính”.
- Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây viết tắt là Kết luận số 79-KL/TW) đã đặt ra mục tiêu chung của việc đổi mới là “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của hệ thống Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra thực sự khoa học, đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp; đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và các chức danh tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng; nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
- Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở quy định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, giải quyết tranh chấp về đất đai; đổi mới cơ chế giám đốc thẩm, tái thẩm”.
- Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, về việc tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới (sau đây viết tắt là Kết luận số 92-KL/TW) đã khẳng định: “Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về cơ bản là đúng đắn. Các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương cần phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, vướng mắc, tiếp tục thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX vẫn còn phù hợp. Đồng thời, quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng nêu trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 có liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp”.
- Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây viết tắt là Kết luận số 84-KL/TW) đã xác định: “Tiếp tục quán triệt và thực hiện các quan điểm, định hướng cải cách tư pháp nêu trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân”.
(2) Việc tổ chức thành Tòa án nhân dân sơ thẩm, Tòa án nhân dân phúc thẩm sẽ là tiền đề để tiếp tục tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm các loại vụ việc cho các Tòa án nhân dân sơ thẩm. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án của Tòa án nhân dân phúc thẩm sẽ được điều chỉnh theo hướng tiếp tục thu hẹp hơn so với hiện hành. Theo đó, Tòa án nhân dân phúc thẩm tập trung xét xử theo thủ tục phúc thẩm, chỉ giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm trong một số trường hợp đặc biệt mà pháp luật quy định; các Tòa án nhân dân sơ thẩm sẽ giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm hầu hết các vụ việc. Qua đó, các Tòa án tăng cường tính chuyên môn, chuyên nghiệp hóa trong việc giải quyết các loại vụ việc đặc thù (hành chính, phá sản, sở hữu trí tuệ,...).
(3) Việc tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp Tòa án là quan hệ hành chính; góp phần thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử; tiếp tục khẳng định Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện thẩm quyền tài phán của quốc gia chứ không phải là Tòa án của tỉnh, huyện; không thực hiện quyền tài phán của tỉnh, huyện. Các luật tố tụng hiện hành đều quy định về thủ tục xét xử tại Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm.
(4) Đây là bước tiến lớn về đổi mới tư duy chính trị - pháp lý, phù hợp định hướng cải cách tư pháp chứ không đơn thuần là thay đổi tên gọi. Quy định như vậy cũng phù hợp với truyền thống tư pháp nước nhà khi Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập các Tòa án của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lịch sử hình thành Tòa án sơ thẩm, Tòa án phúc thẩm đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946.
(5) Quy định này không ảnh hưởng đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng địa phương. Cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng, giám sát của cơ quan dân cử đối với Tòa án; quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan thực thi pháp luật vẫn được thực hiện theo quy định hiện hành. Việc thành lập các Tòa án này sẽ không phải sửa các luật liên quan vì đã quy định trong điều khoản chuyển tiếp của Dự thảo.
(6) Mặc dù có thể phát sinh chi phí sửa con dấu, biển hiệu của Tòa án nhưng không đáng kể so với lợi ích to lớn, lâu dài của việc đổi mới các Tòa án này. Việc đặt tên Tòa án nhân dân sơ thẩm, phúc thẩm mới sẽ được Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với các địa phương, cơ quan, tổ chức hữu quan để thống nhất, bảo đảm việc đặt tên không gây nhầm lẫn, không bị trùng lặp giữa các Tòa án.
Thứ ba, thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt để xét xử một số loại án đặc thù nhằm thể chế hóa chủ trương được nêu tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của đảng về “xây dựng Tòa án chuyên nghiệp” và các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó yêu cầu phải bổ sung, hoàn thiện pháp luật, tổ chức bộ máy phù hợp để đáp ứng yêu cầu giải quyết hiệu quả các vụ án, vụ việc có tính chất đặc thù. Việc thành lập các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt sẽ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định trên cơ sở đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt được thành lập sẽ bảo đảm tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động; phát huy trình độ chuyên môn sâu của Thẩm phán, Hội thẩm trong xét xử, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các loại việc này. Trước mắt, căn cứ vào tình hình thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao đề xuất thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Hành chính, Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Sở hữu trí tuệ, Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản với các lý do cụ thể như sau:
(1) Về cơ sở đề xuất thành lập các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt
- Đối với vụ án hành chính: Đây là loại vụ án phức tạp, xảy ra ngày càng nhiều,[8] ở hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước. Do mô hình tổ chức Tòa án còn gắn với địa giới hành chính nên việc giao cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết, xét xử các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh trở lên sẽ ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan trong quá trình giải quyết.
- Đối với các vụ việc sở hữu trí tuệ, phá sản: Đây là loại vụ việc tuy số lượng không nhiều so với các loại vụ việc khác,[9] nhưng là loại việc khó, phức tạp và ngày càng tăng theo tốc độ phát triển kinh tế của đất nước; do vậy, cần có nhân lực chuyên trách là người không chỉ chuyên sâu về pháp luật mà cần được đào tạo, hiểu biết về các vấn đề chuyên môn của lĩnh vực sở hữu trí tuệ, kinh tế, tài chính... Đặc biệt, đối với vụ việc phá sản, thường rất phức tạp do phải giải quyết các mối quan hệ của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu tuyên bố phá sản như: quan hệ hành chính, lao động, hình sự, dân sự, kinh tế, sở hữu trí tuệ... nên việc giải quyết những loại vụ việc này đòi hỏi phải được tổ chức chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cả về bộ máy và con người. Tuy nhiên, cách thức tổ chức hoạt động và bố trí Thẩm phán như hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu giải quyết hiệu quả những loại vụ việc này.
Trong quá trình xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019, Chính phủ đã đánh giá “Các quy định pháp luật liên quan đến phạm vi áp dụng biện pháp xử phạt hành chính còn rộng, tạo ra gánh nặng không cần thiết cho ngân sách nhà nước khi biện pháp hành chính bị lạm dụng và không phù hợp với bản chất dân sự của quyền sở hữu trí tuệ”. Từ đó, Chính phủ đã xây dựng Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 và đề xuất thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, “tăng cường vai trò của Tòa án trong giải quyết các vụ việc về sở hữu trí tuệ” [10]. Việc thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Sở hữu trí tuệ và tăng cường đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm có trình độ chuyên sâu sẽ nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc về sở hữu trí tuệ tại Tòa án, từ đó giảm áp lực xử lý vi phạm hành chính về sở hữu trí tuệ cho các cơ quan hành chính, đồng thời giải quyết được tận gốc rễ các xâm phạm về sở hữu trí tuệ.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc thành lập các Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ đã thúc đẩy sáng tạo, bảo vệ và khai thác hiệu quả tài sản trí tuệ[11]. Mặc dù tại thời điểm thành lập, số lượng vụ việc về sở hữu trí tuệ mà Tòa án phải giải quyết chưa nhiều, nhưng nhiều quốc gia[12] vẫn quyết tâm thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ với mục tiêu: nâng cao chất lượng, rút ngắn thời gian giải quyết; xây dựng đội ngũ Thẩm phán, chuyên gia có kinh nghiệm, chuyên môn sâu; bảo hộ hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ; gia tăng niềm tin của công chúng, doanh nghiệp. Sau khi đi vào hoạt động, các Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ ở các quốc gia này đã đạt được những thành tựu như: chất lượng xét xử được cải thiện, thời gian giải quyết vụ án được rút ngắn lại; chuyên môn, kinh nghiệm xét xử của Thẩm phán được nâng cao;[13] việc áp dụng biện pháp dân sự trong giải quyết các vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ có xu hướng gia tăng (thay vì biện pháp hành chính và hình sự như trước đây);[14] các phán quyết của Tòa án đã trở thành chuẩn mực, ảnh hưởng tích cực đến việc cấp hoặc hủy bỏ bằng sáng chế tại các cơ quan cấp bằng sáng chế[15]. Những thành tựu đạt được trong hoạt động của các Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ đã chứng minh vai trò quan trọng của nó trong việc bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ, từ đó khích lệ sự sáng tạo của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ. Thông qua việc thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ, các quốc gia đã trực tiếp (hoặc gián tiếp) quảng bá hình ảnh của quốc gia mình trong con mắt cộng đồng quốc tế về cam kết thực thi nghiêm túc quyền sở hữu trí tuệ, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài.[16]
(2) Nhiệm vụ, quyền hạn của từng Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt
Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Hành chính có thẩm quyền giải quyết, xét xử các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh trở lên theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Sở hữu trí tuệ có thẩm quyền giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm các vụ việc về sở hữu trí tuệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo quy định của Luật Phá sản.
(3) Dự kiến số lượng, địa hạt pháp lý và bố trí nguồn lực cho các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt
Trên cơ sở số lượng vụ việc phải giải quyết hằng năm, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao sẽ dự kiến và đề xuất số lượng Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt, địa hạt pháp lý của các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Căn cứ số lượng vụ việc phải giải quyết, biên chế được giao của các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ có đề án báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định về cơ sở vật chất và nguồn lực bảo đảm cho hoạt động của các Tòa án chuyên biệt đạt hiệu quả tối ưu.
(4) Về Thẩm phán, Hội thẩm tại Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt
Trước mắt, các Thẩm phán tại Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt sẽ được điều động từ các Tòa án khác trong hệ thống Tòa án. Họ là những người đã tham gia xét xử các vụ việc có liên quan đến lĩnh vực này và được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước hoặc nước ngoài để nâng cao trình độ chuyên môn sâu. Trong quá trình hoạt động, căn cứ số lượng vụ việc phải giải quyết của các Toà án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt sẽ được bổ sung thêm Thẩm phán cho phù hợp.
Tính chất đặc thù của các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt đòi hỏi Hội thẩm tham gia xét xử tại các Tòa án này phải là những chuyên gia, người có chuyên môn, kinh nghiệm công tác trong các lĩnh vực đặc thù tương ứng. Thực tế, số lượng các chuyên gia, người có chuyên môn, kinh nghiệm công các trong các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, phá sản không nhiều, họ có thể công tác hoặc sinh sống ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước. Vì vậy, việc giao cho Hội đồng nhân dân nơi Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt đặt trụ sở bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt chưa thực sự phù hợp. Vì vậy, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao đề xuất quy định Hội thẩm tại Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Thứ tư, đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án.
Việc quy định Thẩm phán có 04 ngạch như hiện nay (gồm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp) và quy định ở Tòa án nhân dân tối cao chỉ có Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, ở Tòa án nhân dân cấp cao chỉ có Thẩm phán cao cấp, ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh chỉ có Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, ở Tòa án nhân dân cấp huyện chỉ có Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp đang gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc cho tổ chức và hoạt động của Tòa án.[17] Điều này đặt ra yêu cầu phải đổi mới quy định về ngạch bậc của Thẩm phán; do đó, Dự thảo quy định Thẩm phán Tòa án nhân dân là chức danh do Chủ tịch nước bổ nhiệm, gồm: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán. Theo Kết luận 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở thì Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện Ban Bí thư quản lý. Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án cũng là chức danh tư pháp được Chủ tịch nước (đối với Thẩm phán) hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (đối với Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án) bổ nhiệm khi đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm theo quy định. Vấn đề ngạch, bậc của các chức danh Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án cũng như chế độ tiền lương, chính sách ưu đãi đối với các chức danh tư pháp của Tòa án sẽ giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm các chức danh tư pháp ngày càng chặt chẽ, nhằm thể chế hóa nhiệm vụ, giải pháp được đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW là:“Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp”; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án, qua đó nâng cao năng lực xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Tòa án. Dự thảo quy định về tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm từng chức danh tư pháp như sau:
- Đối với chức danh Thẩm phán: bổ sung các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, như: độ tuổi; thâm niên làm công tác pháp luật, làm Thẩm phán; phẩm chất đạo đức và tín nhiệm; chất lượng công việc đã hoàn thành. Việc bổ sung quy định này nhằm bảo đảm nguồn bổ nhiệm Thẩm phán, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không chỉ có kiến thức chuyên sâu về pháp luật, thông thạo chuyên môn mà còn phải có kinh nghiệm sống, có tầm hiểu biết rộng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
- Về chức danh Thẩm tra viên: bổ sung tiêu chuẩn “đã được đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên hoặc nghiệp vụ xét xử”; đồng thời quy định người muốn được bổ nhiệm Thẩm tra viên phải thuộc một trong hai trường hợp: (1) đã làm Thư ký Tòa án từ đủ 04 năm trở lên. (2) có thời gian công tác pháp luật từ đủ 04 năm trở lên.
- Về chức danh Thư ký Tòa án: bổ sung quy định người có đủ các tiêu chuẩn sau thì được bổ nhiệm vào ngạch Thư ký Tòa án: (1) Có trình độ cử nhân luật trở lên; (2) Được đào tạo nghiệp vụ Thư ký Tòa án; (3) Được tuyển dụng vào Tòa án.
Dự thảo đã quy định nhiều nội dung mới nhằm đề cao trách nhiệm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và giám sát đối với Thẩm phán, như: (1) Nhân dân giám sát hoạt động của Tòa án theo quy định của pháp luật; (2) Pháp điển hóa Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán; (3) Quy định về việc tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp; (4) Tòa án thực hiện công khai hoạt động xét xử và hoạt động khác theo quy định của pháp luật để Nhân dân giám sát; (5) Trách nhiệm của Thẩm phán; (6) Những điều Thẩm phán không được làm; (7) Thông tin về Thẩm phán vi phạm pháp luật.
Dự thảo cũng bổ sung quy định có Thẩm phán công tác tại Tòa án nhân dân tối cao để khắc phục khó khăn, vướng mắc lâu nay về việc tăng cường đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm, năng lực thực tiễn tại các địa phương về công tác tại Tòa án nhân dân tối cao để tham mưu cho Hội đồng Thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong công tác giám đốc thẩm, tái thẩm và các nhiệm vụ khác thuộc thẩm quyền. Thẩm phán công tác tại Tòa án nhân dân tối cao ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn tại Tòa án nhân dân tối cao, thì hằng năm phải tham gia xét xử một số vụ án nhất định tại Tòa án khác phù hợp ngạch, bậc của Thẩm phán.
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán, Nghị quyết số 49-NQ/TW yêu cầu “tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không kỳ hạn”; Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “đổi mới … thời hạn bổ nhiệm… nhất là đối với đội ngũ Thẩm phán”. Để thể chế hóa quan điểm của Đảng, Dự thảo quy định: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao làm việc đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác; Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu có nhiệm kỳ 05 năm, Thẩm phán được bổ nhiệm lại có nhiệm kỳ đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Quy định như vậy sẽ tăng cường tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử và giúp Thẩm phán yên tâm công tác. Thẩm phán là chức danh tư pháp được bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ chính là xét xử. Nếu Thẩm phán có vi phạm, tùy theo tính chất và mức độ thì có thể miễn nhiệm, cách chức.
2.4. Về Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia
Dự thảo sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thành phần của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia theo hướng bổ sung chức năng, nhiệm vụ xem xét giải quyết các khiếu nại liên quan đến bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán; giám sát việc phân bổ biên chế, kinh phí, nguồn lực cho các Tòa án nhân dân; bảo vệ Thẩm phán… để tăng cường tính khách quan, minh bạch trong việc cấp, phân bổ kinh phí, biên chế cho các Tòa án, qua đó bảo đảm độc lập trong hoạt động của Thẩm phán và độc lập giữa các cấp Tòa án; phòng ngừa khả năng người lãnh đạo quản lý sử dụng công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, khen thưởng, kỷ luật hoặc những biện pháp hành chính khác như một công cụ để tác động, làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử. Đây là bước đi cụ thể nhằm thể chế hóa nhiệm vụ “Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử” được đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW.
2.5. Đổi mới chế định Nhân dân tham gia xét xử
Nhằm thể chế hóa nhiệm vụ, giải pháp “Ðổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án” được đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW và khắc phục những vướng mắc, bất cập của thực tiễn, Dự thảo đã bổ sung một số quy định: (1) Người được bầu làm Hội thẩm phải có độ tuổi từ đủ 28 tuổi đến 70 tuổi. (2) Người được bầu làm Hội thẩm Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt ngoài việc phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn Hội thẩm thông thường còn phải có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm công tác trong các lĩnh vực đặc thù để tham gia xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết, xét xử của Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt. (3) Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi ứng cử viên Hội thẩm cư trú sẽ bầu Hội thẩm theo số lượng được phân bổ trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của TAND sơ thẩm chuyên biệt. Chánh án TAND sơ thẩm chuyên biệt giới thiệu nhân sự. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổ chức hiệp thương, xin ý kiến của cấp ủy địa phương, sau đó giới thiệu nhân sự để HĐND cấp tỉnh bầu. Các Hội thẩm được bầu sinh hoạt tại Đoàn Hội thẩm của tỉnh. Quy định này phát huy được vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự tham gia của Nhân dân trong xét xử. (4) Phân công ngẫu nhiên Hội thẩm giải quyết vụ án bảo đảm nguyên tắc vô tư, khách quan; (5) Hội thẩm được bảo vệ khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Nghiêm cấm các hành vi cản trở, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của Hội thẩm và thân nhân của họ. Người nào có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của Hội thẩm hoặc thân nhân của họ thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Kết luận
Việc sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân lần này cần tạo ra bước đột phá, làm căn cốt cho cải cách tư pháp, kiến tạo nguồn tư duy đổi mới sáng tạo, diện mạo mới hiện đại cho nền tư pháp Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực chung mang tính phổ quát của thế giới. Những sửa đổi căn bản trong Dự thảo được nêu ở trên được kỳ vọng thể chế hóa rõ hơn nguyên tắc thực hiện quyền tư pháp được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013; thực hiện thành công mục tiêu xây dựng một nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân được ghi nhận trong Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình phát biểu tại tổ tại Kỳ họp QH về Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, ngày 9/11/2023- Ảnh: Duy Tuấn
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
3. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
4. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5. Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
6. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
7. Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).
8. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
9. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
10. Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
11. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019 và 2022.
12. Luật Phá sản năm 2014.
[1] Điều 102 của Hiến pháp năm 2013.
[2] Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[3] Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội…”.
[4] Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đề ra các giải pháp “Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; “Ðổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án”; “Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện tử”; “Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”; “Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp”; “Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp”; “Ðổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán”.
[5] Hệ thống TAND đã không ngừng đổi mới cả về tổ chức và hoạt động để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, nhiệm vụ ngày càng nặng nề đặt ra trong các giai đoạn cách mạng của đất nước. Địa vị pháp lý của tòa án được khẳng định là trung tâm của hoạt động tư pháp; tổ chức bộ máy dần được hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ được tăng cường; chất lượng, hiệu quả công tác không ngừng được nâng cao, hoàn thành tốt các chỉ tiêu, yêu cầu Quốc hội đề ra. Đội ngũ thẩm phán, cán bộ tòa án dần được củng cố về số lượng và nâng cao chất lượng; cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm có bước cải thiện đáng kể.
[6] Xem Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[7] Xử phạt hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng; áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
[8] Trong giai đoạn 2015-2022, toàn hệ thống Tòa án đã thụ lý, giải quyết 25.171 vụ án hành chính.
[9] Trong giai đoạn 2015-2022, toàn hệ thống Tòa án đã thụ lý, giải quyết 1.108 vụ việc phá sản và 403 vụ việc về sở hữu trí tuệ (không bao gồm vụ án hình sự về sở hữu trí tuệ).
[10] Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030.
[11] Báo cáo kết quả khảo sát kinh nghiệm quốc tế của các nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Malaysia, Ukraine…
[12] Ví dụ như: Liên bang Nga, Malaysia, Thái Lan, Ukraine.
[13] Ví dụ như các Tòa án Sở hữu trí tuệ tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Hoa Kỳ.
[14] Ví dụ như thực tiễn tại các nước: Thái Lan, Malaysia.
[15] Ví dụ như kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc.
[16] Theo Báo cáo kết quả khảo sát kinh nghiệm của các nước: Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Liên bang Nga.
[17] (1) Việc thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác bố trí, điều động, luân chuyển, biệt phái Thẩm phán giữa các Tòa án để quy hoạch, đào tạo, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh theo tinh thần cải cách tư pháp khó thực hiện; không bảo đảm được quyền lợi của công chức khi chuyển công tác đáp ứng yêu cầu công tác cán bộ và chuyên môn; (2) không huy động bổ sung được nguồn nhân lực là những Thẩm phán giàu kinh nghiệm xét xử, có năng lực chuyên môn đến làm việc tại các đơn vị của Tòa án nhân dân tối cao, dẫn đến chất lượng, hiệu quả tham mưu cho Hội đồng Thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; (3) Chưa bảo đảm điều kiện, cơ hội để công chức phấn đấu về mặt chuyên môn trong công việc của mình; (4) Việc chia ra các ngạch “Thẩm phán sơ cấp”, “Thẩm phán trung cấp”, “Thẩm phán cao cấp” đã ít nhiều tạo ra sự hiểu sai về trình độ, năng lực của Thẩm phán hiện nay. Không ít người dân có tâm lý cho rằng, các Thẩm phán sơ cấp xét xử ở Tòa án nhân dân cấp huyện có trình độ thấp hơn các Thẩm phán trung cấp, cao cấp ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao nên ảnh hưởng đến sự tín nhiệm đối với bản án, quyết định của Tòa án, là một trong những nguyên nhân dẫn đến có nhiều bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
Bình luận