“Hội thẩm và xét xử” – cẩm nang nghiệp vụ xét xử các loại vụ án

Nhà xuất bản Tư pháp vừa xuất bản cuốn “Hội thẩm và xét xử” của nhóm tác giả do Thẩm phán TANDTC Chu Xuân Minh chủ biên. Ngoài giới thiệu những vấn đề cơ bản về Hội thẩm, cuốn sách đi sâu vào nghiệp vụ xét xử từng loại vụ án như: hình sự, dân sự, kinh doanh – thương mại, hôn nhân gia đình, lao động, hành chính rất cụ thể, thiết thực.

Bao quát nội dung

Cuốn sách 450 trang khổ 16×24 cm này có 8 chương.

Chương 1 – Chế định hội thẩm và xu hướng cải cách gồm các nội dung về Hội thẩm; Đoàn Hội thẩm; Quy định nhân dân tham gia xét xử ở một số quốc gia; Xu hướng cải cách chế định hội thẩm phán với cải cách tư pháp ở Việt Nam.

Chương 2 – Nguyên tắc chung về áp dụng pháp luật khi xét xử với các nội dung: Sự khác nhau của luật và pháp luật; Việc áp dụng pháp luật của Thẩm phán hội thẩm nhân dân so với việc thi hành pháp luật nói chung; Một số vấn đề cơ bản về lựa chọn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật; Khái quát về hệ thống pháp luật hình sự; Khái quát về hệ thống pháp luật dân sự; Khái quát hệ thống pháp luật về kiện hành chính; Lưu ý về áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành luật; Một số sơ đồ hệ thống pháp luật.

Chương 3 – Vụ án hình sự và việc áp dụng pháp luật để xét xử bao gồm: Khái niệm, đặc trưng của vụ án hình sự; Sơ đồ phòng xét xử vụ án hình sự; Bị cáo; Tội phạm; Một số thuật ngữ hình sự cần lưu ý; Những vấn đề phải giải quyết vụ án hình sự; Phiên tòa hình sự; Nghiên cứu chuyên sâu về một số tội phạm cụ thể.

Chương 4 – Vụ án dân sự và việc áp dụng pháp luật dân sự để xét xử gồm: Vụ án dân sự; Cấu trúc của vụ án dân sự; Giải quyết các tranh chấp trong vụ án dân sự; Phiên tòa dân sự; Việc áp dụng pháp luật để giải quyết một số loại án cụ thể.

Chương 5 – Vụ án kinh doanh – thương mại và việc áp dụng pháp luật kinh doanh – thương mại để xét xử gồm các nội dung: Phân biệt vụ án kinh doanh thương mại với vụ án dân sự thông thường; Một số lưu ý trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án kinh doanh – thương mại; Việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án kinh doanh – thương mại.

Chương 6 – Vụ án hôn nhân và gia đình và việc áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình để để xét xử gồm: Sự khác nhau giữa vụ án hôn nhân và gia đình với vụ án dân sự nói chung; Các trạng thái hôn nhân và ý nghĩa pháp lý; Một số trường hợp có vi phạm nhưng vẫn được công nhận hôn nhân hợp pháp một số trường hợp có vi phạm nhưng vẫn được công nhận hôn nhân hợp pháp; Giải quyết về quan hệ hôn nhân; Giải quyết tranh chấp về nuôi con chung; Giải quyết về tài sản chung của vợ chồng; Bài toán cơ bản về chia tài sản khi ly hôn.

Chương 7 – Tranh chấp lao động và việc sử dụng pháp luật giải quyết vụ án lao động gồm: Khái niệm tranh chấp lao động và thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Những lưu ý trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án lao động; Những lưu ý về phiên tòa lao động sơ thẩm; Giải quyết tranh chấp về kỷ luật lao động tại Tòa án; Giải quyết tranh chấp về hợp đồng lao động tại Tòa án.

Chương 8 -Vụ án hành chính và việc áp dụng pháp luật giải quyết vụ án hành chính gồm: Vụ án hành chính; Việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hành chính; Một số ví dụ về giải quyết vụ án hành chính; Lưu ý về một số quy định của tố tụng hành chính khác với tố tụng dân sự.

Cuốn sách còn có Phụ lục 1 – Kinh nghiệm từ một số phiên tòa của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2019 và Phụ lục 2 – Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm.

Một số nội dung cụ thể

Bằng những kinh nghiệm quý báu mà tác giả, nhất là chủ biên đã trải qua, cuốn sách có những chia sẻ kinh nghiệm áp dụng pháp luật rất thiết thực, cụ thể, bổ ích không chỉ đối với Hội thẩm, có thể coi như một cẩm nang cho hoạt động xét xử.

Ví dụ trong giải quyết vụ án dân sự, Điều 5 BLTTDS quy định “Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó” và “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các đương sự có quyền chấm dứt thay đổi yêu cầu của mình…”, các tác giả hướng dẫn xem xét yêu cầu của nguyên đơn.

Nguyên đơn có thể đưa ra nhiều yêu cầu, mỗi yêu cầu đó có thể giải quyết bằng một vụ án nên cần xác định có nhiều vụ án nhỏ trong một vụ án; nguyên đơn có thể rút một hoặc một số yêu cầu và Tòa án cũng có quyền có quyết định đối với từng yêu cầu.

 

Cuốn sách là một cẩm nang cho hoạt động xét xử – Ảnh: Thái Vũ

 

Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước hết phải xác định rõ yêu cầu của nguyên đơn cụ thể là: Xác định theo từng nguyên đơn, mỗi nguyên đơn có mấy yêu cầu với từng bị đơn? Có mấy yêu cầu với từng người liên quan? Tổng hợp tất cả các yêu cầu của từng nguyên đơn, trong đó mỗi yêu cầu phải được làm rõ nội dung phạm vi và mức độ cụ thể.

Yêu cầu của nguyên đơn thường được thể hiện tại đơn khởi kiện nhưng cũng còn được phép thể hiện qua các đơn bổ sung, các biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và trình bày tại phiên tòa.

Kiểm tra xem các yêu cầu mới được bổ sung của nguyên đơn có đầy đủ nội dung quy định tại Điều 189 BLTTDS không? Nguyên đơn đã hoàn thành thủ tục là điều kiện để tòa án thụ lý theo quy định của BLTTDS chưa? Tòa án chỉ chấp nhận xem xét và giải quyết những yêu cầu thỏa mãn các quy định trên của pháp luật tố tụng. Ví dụ, một yêu cầu mới của nguyên đơn phải được thông báo cho bị đơn, phải nộp tạm ứng án phí cho yêu cầu mới.

Hay việc xem xét chứng cứ hợp pháp và chứng cứ không hợp pháp cuốn sách viết: Căn cứ quy định pháp luật hiện hành, chứng cứ hợp pháp là những tình tiết, sự việc có thật, mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí hay dựa trên lợi ích của bất cứ ai; phải được thu thập theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Đối với mỗi loại chứng cứ khác nhau và thông qua quá trình đánh giá xem xét của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận nội dung chứng cứ có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Chứng cứ hợp pháp được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án, cũng như xác định yêu cầu phản đối của đương sự.

Chứng cứ không hợp pháp là chứng cứ không được thu thập theo trình tự pháp luật quy định nên không được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án, cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, việc xác định chứng cứ có hợp pháp hay không căn cứ Điều 95 BLTTDS và các quy định khác của pháp luật tố tụng dân sự.

Trong loại án kinh doanh thương mại, ví dụ về tranh chấp tín dụng tác giả đưa ra các tình huống tranh chấp về hợp đồng tín dụng, tranh chấp về hợp đồng bảo đảm tín dụng. Tranh chấp hợp đồng tín dụng được hiểu là tranh chấp về các hợp đồng cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các hợp đồng tín dụng khác.

Đối với hợp đồng cho vay thì tranh chấp có thể là nợ gốc, nợ lãi, lãi suất, về mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng cho vay như điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và các nội dung khác. Tuy nhiên, trên thực tế hợp đồng cho vay nói riêng, hợp đồng tín dụng nói chung thường xảy ra các tranh chấp giống nhau, tập trung vào số nợ gốc, các loại lãi suất và việc xử lý tài sản bảo đảm.

Đối với các tổ chức tín dụng thì hợp đồng cho vay được điều chỉnh theo các quy định riêng của pháp luật ngân hàng đối với hợp đồng tín dụng đồng thời  theo quy định chung tại Điều 463 BLDS năm 2015 về hợp đồng vay tài sản.

Riêng đối với hợp đồng bảo lãnh ngân hàng, khi các tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ vụ bảo lãnh trả nợ thay thì sẽ chuyển sang ghi nợ cho bên được bảo lãnh, do đó trở thành nghĩa vụ như đối với hợp đồng cho vay. Khi đó lãi suất đối với nợ gốc trong hạn, lãi suất đối với nợ gốc quá hạn và lãi suất đối với nợ quá hạn và lãi suất đối với khoản nợ chậm thi hành án sẽ được xử lý hoàn toàn giống như hợp đồng cho vay của các tổ chức tín dụng.

Trường hợp hợp đồng tín dụng vô hiệu thì hậu quả pháp lý là không tính lãi cho vay hay phí bảo lãnh theo quy định tại Điều 131 BLDS năm 2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.

Trong Phụ lục 1 – Kinh nghiệm từ một số phiên tòa của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2019 các tác giả đã cung cấp 21 tình huống pháp lý với các vụ án cụ thể như: Tại sao không chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC về áp dụng Án lệ số 02/2016/AL?  Những tranh chấp thừa kế được xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo luật cũ hay luật mới?  Đã trả lại tiền lừa đảo từ trước khi có đơn tố cáo thì có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Tránh nhầm lẫn quy định về nghĩa vụ riêng, nghĩa vụ chung với xác định tài sản chung và vấn đề “nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Nghĩa vụ chứng minh là của ai? Tự ý đi qua đất thuộc quyền sử dụng của người khác, bị buộc trả lại lối đi thì Tòa án có phải giải quyết lối đi khác cho họ không? Sai lầm về xác định tranh chấp và xác định quan hệ nhân quả? Chuyển sở hữu chung hợp nhất sang sở hữu chung theo phần và hậu quả pháp lý. Sai lầm từ việc xác định không đúng hiệu lực của quyết định thu hồi đất. Đòi tiền từ thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thì Tòa án có phải xem xét về hợp đồng không? “Văn tự bán ao” có xác nhận của Lý trưởng và Chưởng bạ có thuộc loại giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 hay không? Trung tâm Internet Việt Nam có phải là đương sự trong vụ án tranh chấp tên miền hay không?…

**

Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng. Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1.Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm… 4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số…”.

Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân có quy định về tiêu chuẩn Hội thẩm:  Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…  Có kiến thức pháp luật, có hiểu biết xã hội.

Do đó, nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm là một nhiệm vụ rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, theo đúng tinh thần cải cách tư pháp. Cuốn sách “Hội thẩm và xét xử” là một công cụ quý giá, là một đóng góp thiết thực cho nhiệm vụ đó.

 

Hội thẩm nhân dân tỉnh  tham gia Hội đồng xét xử trong một phiên tòa xét xử lưu động tại huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai – Ảnh : Tố Tâm/ BĐN

THÁI VŨ