Bình Dương: Cùng một lô đất, bán cho hai doanh nghiệp

Dù đã ký kết hợp đồng với Công ty T.P để bán thửa đất tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Thế nhưng Công ty Nam Nghinh Phong vẫn tiếp tục nhận cọc để bán lô đất này cho bên thứ 3

Nhận tiền cọc nhưng không thực hiện theo cam kết

Trong đơn tố cáo của đại diện Công ty CP thương mại dịch vụ và đầu tư địa ốc T.P (viết tắt là Công ty T.P) thì vào đầu năm 2019 ông Trần Phi Hoàng, là đại diện pháp lý Công ty CP Xăng Dầu và BĐS Nam Nghinh Phong (viết tắt là Công ty Nam Nghinh Phong) và vợ là bà Huỳnh Thị Mỹ Ngọc (người đứng tên thửa đất) đã làm hợp đồng giao dịch và đặt cọc hai thửa đất (622 và 1000- PV) với Công ty T.P (hợp đồng số 01/HĐĐC/TP-2019).

Theo đó, thửa đất thuộc tờ bản đồ 37, có tổng diện tích 10.246,4 m2 (trong đó: 2.000m2 đất ở; 7.908,4 m2 đất sản xuất kinh doanh, 338m2 đất trồng cây lâu năm), tọa lạc tại P.Hòa Lợi, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương

Sau khi ký hợp đồng, Công ty T.P đã chuyển nhiều lần chuyển tiền cho ông Hoàng và bà Ngọc, với số tiền là 5 tỷ đồng. Tuy vậy, Công ty Nam Nghinh Phong lại không thực hiện những điều khoản đã ký tại hợp đồng.

Cụ thể, theo hợp đồng đặt cọc số 01/HĐĐC/TP-2019 ngày 02/01/2019, nêu rõ khi chuyển nhượng 2 thửa đất trên phải được tiến hành xin chủ trương lập dự án Khu nhà ở Nam Nghinh Phong với tổng số nền là 79 nền; diện tích và bản vẽ thiết kế phải như sơ đồ đính kèm. Cơ sở hạ tầng tại dự án được thi công theo quy định nhà nước với tỷ lệ quy hoạch chuẩn khu dân cư, điện âm, nước máy… Mỗi nền đất được cam hết sổ hồng riêng từng nền, thổ cư 100%.

Đồng thời, hợp đồng cũng nêu rõ trong vòng 45 ngày kể từ ngày đặt cọc, ông Trần Phi Hoàng và bà Huỳnh Thị Mỹ Ngọc phải cung cấp một số giấy tờ pháp lý về việc chấp thuận chủ trương thực hiện dự án Khu nhà ở Nam Nghinh Phong từ hai thửa đất trên cho Công ty T. P. Tuy nhiên, sau 45 ngày phía Công ty T. P vẫn không nhận được bất kỳ giấy tờ pháp lý nào liên quan đến dự án.

Khu đất được cho là dự án Khu nhà ở Nam Nghinh Phong vẫn chỉ là bãi đất trống

Chờ đợi quá lâu, đại diện Công ty T. P đã nhiều lần liên hệ đến Công ty Nam Nghinh Phong yêu cầu ông Trần Phi Hoàng hoàn lại số tiền mà Công ty T. P đã đặt cọc và bồi thường đúng theo hợp đồng đã ký kết. Nhưng ông Trần Phi Hoàng lại không hợp tác và không hoàn lại số tiền đặt cọc cũng như bồi thường sai phạm hợp đồng cho Công ty T.P.

Phát hiện lô đất mình mua được bán cho người khác

Trong lúc đang yêu cầu trả lại số tiền cọc 5 tỷ, thì Công ty T.P lại phát hiện cùng thửa đất mình đang mua từ Công ty Nam Nghinh Phong, thì cũng với hình thức đặt cọc, vào tháng 5/2019 ông Trần Phi Hoàng và vợ là bà Huỳnh Thị Mỹ Ngọc tiếp tục giao dịch hai thửa đất trên cho bên thứ 3 là Công ty TNHH xây dựng và bất động sản Đông Nam Bộ (Viết tắt là Công ty Đông Nam Bộ) theo hợp đồng được hai bên ký kết vào ngày 05/5/2019 (trong khoảng thời gian này hợp đồng giữa Công ty T. P và phía bên ông Trần Phi Hoàng vẫn còn hiệu lực).

Có thể thấy, cùng một diện tích đất nhưng Công ty Nam Nghinh Phong lại đem bán cho 2 doanh nghiệp, điều này buộc phía Công ty T.P phải làm đơn tố giác gửi Công An Bến Cát tố cáo về tội lừa đảo.

Nói về trường hợp trên, Luật sư Thái Nguyên Thắng (Đoàn Luật sư TP.HCM) phân tích: “Trước hết phải xem thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc năm 2019, giữa Công ty Nam Nghinh Phong với Công ty T. P để xác định bên nào vi phạm.”

Trường hợp bên mua vi phạm thời hạn thanh toán, thì bên bán có quyền chuyển nhượng cho người khác. Việc tranh chấp tiền đặt cọc (nếu có) sẽ được giải quyết bằng vụ kiện dân sự. Trường hợp còn trong thời hạn thỏa thuận nhưng bên chuyển nhượng cố tình bán cho người khác (một diện tích bán cho hai người), có thể bị xử lý hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cũng theo luật sư Thắng, trong trường hợp giải quyết dân sự cũng cần xem thỏa thuận giữa các bên. Tại Điều 418 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 về “Thỏa thuận phạt vi phạm”, quy định: Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm; mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác; các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm, nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại, thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.

 Trụ sở Công ty Nam Nghinh Phong cửa chốt then cài

 

 

QUANG MINH