Bốn nguyên tắc lớn trong bầu cử

Cuộc bầu cử Quốc hội khoá XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là sự kiện để cử tri phát huy quyền làm chủ, bầu ra những người xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ mới. Bầu cử được thực hiện dựa trên bốn nguyên tắc mà Hiến pháp và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đã quy định.

Theo Điều 7 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND), việc bầu cử được tiến hành theo bốn nguyên tắc là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Nguyên tắc phổ thông

Nguyên tắc bầu cử phổ thông, hay còn gọi khác là nguyên tắc “phổ thông đầu phiếu” là nguyên tắc bầu cử phổ biến nhất trên thế giới. Nội dung của nguyên tắc này là các cuộc bầu cử phải có một phạm vi đông đảo nhất người dân tham gia. Nhà nước phải bảo đảm điều này trên cả hai phương diện. Ở phương diện pháp lý, trước tiên, nhà nước phải ban hành luật sao cho có phạm vi đông đảo nhất người được đi bỏ phiếu.

Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định hai điều kiện là tư cách công dân Việt Nam và đủ 18 tuổi trở lên. Các đặc điểm cá nhân khác như giới tính, tôn giáo, tình trạng tài sản, tình trạng hôn nhân, dân tộc, tiếng nói, màu da... đều không phải là các điều kiện được hưởng hoặc thực hiện quyền bầu cử.

Khía cạnh thứ hai của phương diện pháp lý là tính phổ thông trong quyền được ứng cử của người dân. Ở khía cạnh này tính phổ thông không được thể hiện rộng rãi như đối với quyền bầu cử. Một cuộc bầu cử sẽ không thể tiến hành được nếu số lượng ứng cử viên quá đông bởi lẽ khi đó việc lựa chọn sẽ không tập trung và kết quả rất có thể là không bầu được đủ số đại biểu cần thiết. Chính vì vậy việc hạn chế về mặt pháp lý khả năng trở thành ứng cử viên là điều cần thiết và tất cả các quốc gia đều quy định những hạn chế này.

Tuy vậy, những hạn chế đó phải hợp lý và công bằng, có nghĩa là không được nhằm loại trừ cơ hội được ứng cử của bất kì cá nhân nào. Hiến pháp Việt Nam quy định để có quyền ứng cử, người dân cần đáp ứng hai điều kiện là có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và đủ 21 tuổi trở lên (Điều 27 Hiến pháp 2013 và Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015). Tất nhiên, để thực hiện được quyền này một cách thực chất, người dân còn phải đáp ứng một số điều kiện khác.

Nguyên tắc bầu cử phổ thông còn đòi hỏi về phương diện thực tế nhà nước phải tạo mọi điều kiện vật chất cần thiết để người dân có thể đi thực hiện quyền bầu cử hoặc ứng cử của mình theo quy định của pháp luật.

Nguyên tắc bầu cử phổ thông là sự bảo đảm trực tiếp cho tính dân chủ và tính chính thống của một cuộc bầu cử. Thông thường, càng nhiều người dân tự nguyện tham gia bầu cử càng thể hiện sự quan tâm lớn của người dân trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện nhà nước thực sự là của nhân dân. Cơ hội tham gia ứng cử công bằng với tất cả mọi người cũng góp phần tạo niềm tin của người dân vào sự lựa chọn của mình, từ đó gia tăng tính chính thống của bộ máy do người dân bầu chọn.

Thực tế cho thấy đã có đơn vị bầu cử phải tổ chức bầu cử lại do không có quá 50% cử tri đi bầu cử.

Nguyên tắc bình đẳng

Nguyên tắc bầu cử bình đẳng là sự bình đẳng giữa các cử tri và sự bình đẳng giữa các ứng cử viên. Khi đi bầu cử, mỗi cử tri có một lá phiếu và giá trị của mỗi lá phiếu là như nhau đối với việc xác định kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử. Cụ thể, cử tri A và cử tri B đi bầu tại đơn vị bầu cử X thì phiếu của A và của B đều có giá trị như nhau, bằng 1 và cũng giống như tất cả các phiếu cử tri khác trong đơn vị bầu cử X.

Tuy nhiên, bình đẳng này có ý nghĩa tương đối, không có nghĩa là giá trị lá phiếu của các cử tri ở các đơn vị bầu cử hay các tỉnh khác nhau là bằng nhau. Ví dụ trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội cử tri tỉnh A được bầu 6 đại biểu, tính trung bình thì 90.000 phiếu cử tri tương ứng với 1 ghế đại biểu nhưng ở thành phố B, được bầu 20 đại biểu, tính trung bình khoảng 170.000 phiếu cử tri mới tương ứng với 1 ghế đại biểu.

Sự bình đẳng giữa các ứng cử viên thể hiện ở chỗ khi đã được giới thiệu trong danh sách ứng cử viên thì các ứng cử viên dù thuộc thành phần nào cũng đều được cư xử như nhau, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Trong danh sách ứng cử viên công bố tới cử tri, thứ tự tên của các ứng cử viên được xếp theo bảng chữ cái chứ không theo chức vụ hay thành phần hay tiêu chí nào khác. Thậm chí, pháp luật còn loại trừ khả năng ứng cử viên tận dụng lợi thế riêng về vật chất hoặc chức vụ để tạo lợi thế cho mình trước các ứng cử viên khác.

Điều 62 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định công tác tuyên truyền, vận động bầu cử là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và được bảo đảm bằng kinh phí nhà nước. Như vậy, ứng viên dù có tiềm lực tài chính dồi dào cũng không được bỏ tiền vận động bầu cử cho mình. Mọi hoạt động sử dụng chức vụ, quyền hạn hoặc hứa tặng cho, ủng hộ tiền, tài sản đế vận động bầu cử đều bị cấm (Khoản 2, khoản 4 Điều 68 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015). Có thể nói, quy định chặt chẽ để bảo đảm sự bình đẳng giữa các ứng cử viên trong vận động bầu cử là một nét đặc sắc của nguyên tắc bình đẳng trong chế độ bầu cử của Việt Nam.

Nguyên tắc trực tiếp

Nguyên tắc bầu cử trực tiếp có nghĩa là cử tri đồng ý bầu chọn ứng cử viên nào thì bỏ phiếu thẳng cho người đó và sự lựa chọn của cử tri được tính trực tiếp vào kết quả bầu chọn đối với ứng cử viên.

Triết lý của nguyên tắc bầu cử trực tiếp là khi quyền lực được giao trực tiếp từ người dân thì người được giao quyền lực cũng phải được người dân lựa chọn trực tiếp. Nếu thực hiện sự lựa chọn qua trung gian thì người trung gian có thể sẽ không thể hiện đúng ý chí của người dân. Vì vậy, nguyên tắc bầu cử trực tiếp là nhân tố quan trọng bảo đảm tính dân chủ của cuộc bầu cử, tức là người dân thực sự làm chủ quá trình lựa chọn người nắm giữ quyền lực.

Theo Điều 69 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, mỗi cử tri sẽ được phát trước một thẻ cử tri. Đến ngày bầu cử, cử tri phải tự mình đến địa điểm bỏ phiếu, xuất trình thẻ cử tri. Sau đó, cử tri được phát một phiếu bầu cử tương ứng với mỗi cơ quan được bầu. Cử tri phải tự mình viết vào phiếu bầu cử của mình và trực tiếp bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu. Chỉ trong trường hợp không thể tự viết được thì cử tri mới có thể nhờ người khác bỏ phiếu; song đích thân cử tri phải bỏ lá phiếu vào hòm phiếu. Nếu không tự mình bỏ phiếu được thì mới được nhờ người khác bỏ hộ phiếu vào hòm phiếu.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 69, trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.

Như vậy, nguyên tắc bầu cử trực tiếp như quy định trong pháp luật hiện hành của Việt Nam không chỉ chú trọng tới sự trực tiếp về ý chí mà còn hết sức chú trọng tới sự trực tiếp về hình thức.

Nguyên tắc bỏ phiếu kín

Nguyên tắc bỏ phiếu kín là công đoạn viết phiếu và bỏ phiếu, phải được tổ chức sao cho không một ai được biết nội dung của lá phiếu cũng như sự lựa chọn của cử tri ngoài chính bản thân cử tri. Nguyên tắc này đòi hỏi trước tiên bầu cử phải được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu chứ không phải bằng giơ tay biểu quyết. Sau đó, từ công đoạn chuẩn bị phiếu bầu cử, phát phiếu bầu cử đến công đoạn cử tri viết phiếu và bỏ phiếu đều phải bảo đảm bí mật. Ngay cả việc thực hiện nguyên tắc bầu cử trực tiếp cũng phần nào giúp bảo đảm nguyên tắc bỏ phiếu kín, bởi vì chỉ khi cử tri bỏ phiếu trực tiếp thì mới bảo đảm chỉ một mình cử tri biết về sự lựa chọn của mình.

Để cụ thể hóa nguyên tắc bỏ phiếu kín, pháp luật hiện hành cũng quy định khi cử tri viết phiếu bầu thì không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử, tức là những người phụ trách bầu cử ở địa phương; nếu có người viết hộ thì người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri (Khoản 3, khoản 5 Điều 69 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015).

Việc thực hiện nguyên tắc bỏ phiếu kín là nhằm bảo đảm tính khách quan của cuộc bầu cử. Bầu chọn người nắm giữ quyền lực nhà nước là một vấn đề tế nhị. Người được bầu chọn để nắm quyền có thể sẽ có tác động không nhỏ tới đời sống của cử tri. Vì vậy, giữ bí mật phiếu bầu là nhân tố bảo đảm cử tri có thể tiến hành lựa chọn ứng cử viên một cách tự do mà không e ngại bất cứ hậu quả bất lợi nào đối với mình, từ đó bảo đảm tính khách quan của cuộc bầu cử.

 

Cử tri đi bỏ phiếu bầu tại xã Ch'om, huyện Tây Giang, Quảng Nam. Ảnh: Minh Nhớ

 

NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT