Những yêu cầu đối với cơ quan Thi hành án dân sự để hạn chế phát sinh trách nhiệm bồi thường

Ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018. Các quy định này gia tăng áp lực, buộc Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm trong công tác tổ chức thi hành án, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác giải quyết bồi thường.
So với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 có nhiều điểm mới liên quan đến công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự, như: Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; thời hiệu yêu cầu bồi thường; căn cứ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường; cơ chế giải quyết bồi thường; thiệt hại được bồi thường; kinh phí bồi thường; thủ tục chi trả tiền bồi thường và trách nhiệm hoàn trả cho ngân sách Nhà nước…Những điểm mới của Luật TNBTCNN năm 2017 đã khắc phục được những hạn chế, bất cập của Luật TNBTCNN năm 2009, tạo hành lang pháp lý cơ bản để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra.
 Để hạn chế nguy cơ phải chịu trách nhiệm bồi thường nhà nước theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống thi hành án dân sự cụ thể như sau:
1. Phải thực hiện tốt công tác tổ chức thi hành án
So với Điều 38 Luật TNBTCNN năm 2009 về phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự, Điều 21 Luật TNBTCNN năm 2017 đã bỏ quy định về “lỗi cố ý” đối với trường hợp không ra quyết định về thi hành án hoặc không tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án. Thay vào đó Luật TNBTCNN năm 2017 tập trung nhấn mạnh tính trái pháp luật trong hành vi thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Vì vậy, trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu thủ trưởng, cán bộ, chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự có các hành vi ra hoặc không ra các quyết định về thi hành án trái pháp luật; tổ chức hoặc không tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án trái pháp luật mà gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức đều thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước theo quy định tại Điều 21 Luật TNBTCNN năm 2017.
Bên cạnh đó, Luật TNBTCNN năm 2017 đã kéo dài thời hiệu yêu cầu bồi thường, theo đó, thời hiệu yêu cầu bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường (khoản 1 Điều 6).
Ngoài ra, Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung các quy định về thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường (khoản 3 Điều 6) và nghĩa vụ chứng minh của người yêu cầu bồi thường đối với khoảng thời gian không tính vào thời hiệu (khoản 4 Điều 6), cụ thể: (1) Khoảng thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật dân sự làm cho người có quyền yêu cầu bồi thường không thể thực hiện được quyền yêu cầu bồi thường; (2) Khoảng thời gian mà người bị thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi chưa có người đại diện theo quy định của pháp luật hoặc người đại diện đã chết hoặc không thể tiếp tục là người đại diện cho tới khi có người đại diện mới.
Như vậy, có thể thấy rằng, theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017, thì phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước được mở rộng và thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường được kéo dài hơn nên nguy cơ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự theo Luật TNBTCNN năm 2017 sẽ cao hơn so với Luật TNBTCNN năm 2009.
Nhằm hạn chế nguy cơ phát sinh trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự, biện pháp chủ đạo, then chốt chính là làm tốt công tác tổ chức thi hành án. Để làm tốt công tác tổ chức thi hành án, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự trong thời gian tới, cụ thể như sau:
Đối với Chấp hành viên:
+ Cần trau dồi, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan trong việc ban hành các quyết định và tổ chức thi hành án; đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực thi công vụ để bảo đảm việc ra hoặc không ra các quyết định thi hành án, tổ chức hoặc không tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án luôn đúng quy định pháp luật.
+ Quá trình tổ chức thi hành án, phải kịp thời báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ đối với những vụ việc có khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Đối với cơ quan thi hành án dân sự:
+ Cần quan tâm tới công tác xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức có năng lực, đáp ứng yêu cầu công vụ; có biện pháp siết chặt kỷ luật, kỷ cương công vụ trong hoạt động thi hành án;
+ Tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp công chức có hành vi sai phạm; đối với các hành vi sai phạm có dấu hiệu tội phạm đề nghị chuyển cơ quan điều tra xử lý nghiêm;
+ Thường xuyên quán triệt, chỉ đạo Chấp hành viên thực hiện đúng trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm quá trình tổ chức thi hành án tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan, hạn chế thấp nhất những vi phạm xảy ra trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
2. Phải làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền, qua đó xử lý sớm các vụ việc có nguy cơ phát sinh yêu cầu bồi thường của nhà nước.
Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Cơ quan thi hành án dân sự trong việc hạn chế nguy cơ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước. Bởi lẽ:
Qua công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo giúp cơ quan thi hành án dân sự nắm được tâm tư, nguyện vọng cùng những thông tin phản hồi, kiến nghị, góp ý của nhân dân. Từ đó, cơ quan thi hành án dân sự sẽ kịp thời giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật; kịp thời chấn chỉnh, xử lý các sai phạm phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự; hạn chế các vụ việc có nguy cơ phát sinh yêu cầu bồi thường của nhà nước.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 12 Luật TNBTCNN  năm 2017 thì Quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự chấp nhận một phần hoặc toàn bộ nội dung khiếu nại của người khiếu nại và Quyết định xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ bị tố cáo trên cơ sở kết luận nội dung tố cáo theo quy định của pháp luật về tố cáo là một trong những căn cứ để tổ chức, cá nhân thực hiện quyền yêu cầu bồi thường và đối với những trường hợp người bị thiệt hại khởi kiện ra Tòa thì quá trình xét xử, về cơ bản Tòa án sẽ căn cứ vào chính các văn bản xác định hành vi sai phạm của cơ quan thi hành án dân sự để xác định trách nhiệm bồi thường của cơ quan thi hành án dân sự.
Để làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền, yêu cầu đặt ra cho Cơ quan thi hành án dân sự là:
– Cơ quan thi hành án dân sự cần có kế hoạch thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, cụ thể để giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;
– Cơ quan thi hành án dân sự phải thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp dân, bố trí cán bộ có đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm, đảm nhiệm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực hiện nghiêm các quy định của Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo. Tổ chức tốt việc đối thoại, tiếp công dân có khiếu nại, tố cáo gắn với trách nhiệm của người đứng đầu Cơ quan thi hành án dân sự. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự định kỳ phải trực tiếp tiếp công dân, hạn chế ủy quyền cho cấp dưới. Những vụ việc phức tạp Lãnh đạo đơn vị phải trực tiếp tiếp dân, tổ chức đối thoại với đương sự với tinh thần “giải quyết để bảo đảm yên dân chứ không giải quyết xong việc”;
– Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án nói riêng để người dân hiểu và chấp hành pháp luật; Tăng cường vận động, thuyết phục công dân chấp hành pháp luật, đồng tình với chủ trương giải quyết của Cơ quan thi hành án dân sự trong công tác tổ chức thi hành án và công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Khi xảy ra khiếu kiện đông người, Cơ quan thi hành án dân sự phải tăng cường sự phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, nhất là tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương để tiếp dân và vận động công dân trở về địa phương; đồng thời, có biện pháp giải quyết kịp thời, dứt điểm, không để kéo dài, tái khiếu kiện. Trường hợp khiếu kiện đã có văn bản của cơ quan có thẩm quyền kết luận, trả lời chấm dứt giải quyết mà cá nhân, tổ chức vẫn tiếp tục khiếu kiện thì Cơ quan thi hành án dân sự cần huy động sức mạnh của hệ thống chính trị ở địa phương tham gia vào công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo để giải thích, thuyết phục họ không tiếp tục khiếu nại, tố cáo, kéo dài. Đối với các trường hợp lợi dụng khiếu nại, tố cáo để kích động, gây rối thì phải tiến hành làm rõ, xử lý nghiêm minh theo pháp luật;
– Thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo; nghiên cứu kỹ, đầy đủ và toàn diện hồ sơ thi hành án khi giải quyết, khiếu nại, tố cáo. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cân nhắc đầy đủ, kỹ lưỡng các quy định của pháp luật trước khi ban hành các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đảm bảo việc giải quyết khiếu nại tố cáo khách quan, đúng pháp luật.
– Thực hiện nghiêm các quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật; thường xuyên rà soát và tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài. Tăng cường kiểm tra trách nhiệm Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về công tác tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3. Cần chủ động khắc phục hậu quả khi có thiệt hại xảy ra
So với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung thêm nhiều loại thiệt hại được bồi thường như: (1) Tiền phạt do vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch dân sự, kinh tế do không thể thực hiện được các giao dịch dân sự, kinh tế đã có hiệu lực và khoản lãi của khoản tiền phạt đó; thiệt hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (Điều 23); (2) Các chi phí khác như: Chi phí thuê người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại (Điều 28)…
Bên cạnh đó, Luật TNBTCNN năm 2017 quy định khoảng thời gian làm căn cứ xác định thiệt hại được bồi thường được tính từ ngày phát sinh thiệt hại thực tế cho đến khi chấm dứt thiệt hại đó (khoản 3 Điều 22).
Việc bổ sung thêm các loại thiệt hại được bồi thường cũng như quy định cụ thể về khoảng thời gian làm căn cứ xác định thiệt hại được bồi thường theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Điều đó, đồng nghĩa với việc số tiền Ngân sách nhà nước phải bỏ ra để chi trả bồi thường có nguy cơ tăng cao hơn trước và trách nhiệm đặt ra đối với cán bộ, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự trong thực thi công vụ cũng sẽ lớn hơn.
Để tránh tăng gánh nặng cho Ngân sách nhà nước, ảnh hưởng xấu tới uy tín của Chấp hành viên, Cơ quan thi hành án dân sự; giảm khoản tiền Nhà nước phải bồi thường, Cơ quan thi hành án dân sự cần phải:
– Kịp thời giải quyết các vụ việc đã phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước, tránh tình trạng kéo dài làm phát sinh thêm số tiền phải bồi thường nhà nước (vì theo quy định tại khoản 3 Điều 22 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017, khoảng thời gian làm căn cứ xác định thiệt hại được bồi thường quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 23 được tính từ ngày phát sinh thiệt hại thực tế cho đến khi chấm dứt thiệt hại đó);
– Thực hiện tốt hơn công tác dự báo, hạn chế thấp nhất các vụ việc có thể xảy ra bồi thường nhà nước, thường xuyên kiểm tra, rà soát các quyết định, hành vi thực thi công vụ trong hoạt động thi hành án dân sự có thể dẫn đến vi phạm, phải bồi thường để tổ chức rút kinh nghiệm, phòng tránh;
– Đối với những vụ việc có khả năng xảy ra bồi thường, cơ quan thi hành án dân sự cần chỉ đạo công chức gây sai phạm chủ động khắc phục hậu quả, giảm thiệt hại; tổ chức tiếp xúc người bị thiệt hại với thái độ cầu thị nhằm giảm bức xúc của người dân đối với cơ quan thi hành án.
4. Phải làm tốt công tác giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan thi hành án dân sự
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại theo hướng cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc giải quyết bồi thường, khắc phục tình trạng việc giải quyết bồi thường kéo dài, chậm cấp phát kinh phí bồi thường, chi trả tiền bồi thường. Các quy định sửa đổi bổ sung của Luật một mặt tạo hành lang pháp lý cho việc giải quyết bồi thường được nhanh chóng, thuận lợi. Song một số nội dung sửa đổi cũng tạo áp lực cho Cơ quan thi hành án dân sự, người giải quyết bồi thường. Theo đó, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự, người giải quyết bồi thường phải giải quyết nhanh gọn nhưng đảm bảo chính xác.
Một số sửa đổi, bổ sung của Luật có tác động đến việc giải quyết bồi thường của cơ quan thi hành án dân sự đó là: (1) Rút ngắn thời hạn giải quyết bồi thường từ 95 – 125 ngày xuống còn từ 41 – 71 ngày; (2) Bổ sung thêm quy định về việc tạm ứng kinh phí bồi thường (Điều 44) đối với trường hợp người yêu cầu bồi thường có yêu cầu tạm ứng kinh phí bồi thường thì cơ quan giải quyết bồi thường có trách nhiệm thực hiện việc tạm ứng kinh phí để chi trả đối với những thiệt hại về tinh thần và những thiệt hại khác có thể tính được ngay mà không cần phải xác minh, với mức tạm ứng không dưới 50% giá trị các thiệt hại; (3) Bỏ quy định về cơ chế thẩm định hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường của cơ quan quản lý cấp trên (đối với cơ quan hưởng kinh phí từ Ngân sách Trung ương). Theo đó, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm giải quyết bồi thường sẽ lập (tự chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ đề nghị cấp kinh phí) và gửi hồ sơ đến cơ quan tài chính có thẩm quyền (Bộ Tài chính) đề nghị thẩm định, cấp kinh phí bồi thường cho người bị thiệt hại (khoản 1 Điều 62 Luật TNBTCNN năm 2017) mà không gửi hồ sơ đến Tổng cục Thi hành án dân sự để thẩm định như trước đây.
Có thể thấy rằng, công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự là lĩnh vực mới, phức tạp, trong khi tổ chức, cán bộ chịu trách nhiệm tham mưu về công tác này chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao cả về số lượng và chất lượng. Mặt khác, những vụ việc phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước là những vụ việc rất phức tạp, phải xem xét lại từ quá trình tổ chức thi hành án cho đến quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo; nhiều vụ việc đã xảy ra nhiều năm, trải qua nhiều giai đoạn giải quyết khác nhau. Do đó, làm tốt công tác giải quyết yêu cầu bồi thường có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và uy tín của Nhà nước.
Để tránh tình trạng quá trình tổ chức thi hành án có vi phạm pháp luật dẫn đến phải thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà nước, đến quá trình giải quyết bồi thường tiếp tục có sai sót, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước hoặc ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, đòi hỏi cơ quan thi hành án dân sự và người giải quyết bồi thường phải đề cao trách nhiệm và năng lực giải quyết vụ việc, cụ thể:
– Đối với người được cử giải quyết bồi thường:
+ Nghiên cứu kỹ, đầy đủ và toàn diện hồ sơ thi hành án, bao gồm: Quá trình tổ chức thi hành án; sai phạm dẫn đến phải thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà nước; quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo… để xác định chính xác phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự theo quy định tại Điều 21 Luật TNBTCNN năm 2017.
+ Nghiên cứu kỹ các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan thi hành án dân sự theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 để tham mưu lãnh đạo cơ quan thi hành án dân sự giải quyết bồi thường chặt chẽ, đúng pháp luật, trong đó: Cần lưu ý việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc theo quy định tại Điều 78 Luật TNBTCNN năm 2017.
Đối với cơ quan thi hành án dân sự:
+ Tại các cuộc họp giao ban, Hội nghị sơ kết, tổng kết, triển khai công tác thi hành án dân sự, các Cục thi hành án dân sự cần lồng ghép phổ biến, quán triệt những điểm mới của Luật TNBTCNN năm 2017 đến toàn thể các Chấp hành viên, công chức có liên quan trong đơn vị và các Chi cục thi hành án dân sự trên địa bàn, trong đó đặc biệt lưu ý những điểm mới làm tăng nguy cơ phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đối với các đơn vị đã phát sinh hoặc nguy cơ phát sinh vụ việc phải thực hiện trách nhiệm bồi thường Nhà nước, cần tổ chức các cuộc họp để kịp thời tháo gỡ những khó khăn trong việc giải quyết bồi thường, tránh tình trạng kéo dài, làm phát sinh thêm số tiền phải bồi thường nhà nước.
+ Quan tâm tới việc cử người giải quyết bồi thường theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 43 Luật TNBTCNN năm 2017, đặc biệt lựa chọn người có kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực thi hành án dân sự để có đánh giá chính xác về các thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại.
+ Cần chủ động tranh thủ sự phối hợp với các cơ quan có liên quan (đặc biệt là cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, cơ quan tài chính có thẩm quyền) từ giai đoạn xác minh thiệt hại, thương lượng giải quyết bồi thường theo quy định tại Điều 45, Điều 46 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 để việc giải quyết bồi thường chính xác, tránh thiệt hại cho Ngân sách nhà nước.
5. Cần chủ động, chuẩn bị kỹ lưỡng tham gia tố tụng để giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án 
So với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 đã mở rộng cơ chế giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án, theo đó: (1) Cho phép người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự; (2) kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự (khoản 4 Điều 4). Do đó, chỉ cần có văn bản xác định hành vi sai phạm của người thi hành công vụ, người bị thiệt hại đã có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự.
Như vậy, cùng với quy định mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự, việc mở rộng quyền lựa chọn con đường giải quyết bồi thường cho tổ chức cá nhân (hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hoặc khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án), khả năng cơ quan thi hành án dân sự tham gia tố tụng trong vụ án giải quyết yêu cầu bồi thường của Tòa án theo Luật TNBTCNN năm 2017 sẽ diễn ra thường xuyên hơn.
Vì vậy, để bảo vệ uy tín của Cơ quan thi hành án dân sự, quyền và lợi ích của Nhà nước tại Tòa án, đối với những vụ việc người yêu cầu bồi thường khởi kiện ra Tòa, cơ quan thi hành án bị khởi kiện cần:
– Chấp hành nghiêm việc tham gia tố tụng giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo triệu tập của Tòa án;
– Chuẩn bị kỹ lưỡng nội dung vụ việc (về hồ sơ thi hành án, các căn cứ lập luận, phản biện đối với yêu cầu bồi thường của người bị hại…) để tham gia hiệu quả tại Tòa án;
– Lựa chọn cử người đại diện nắm rõ vụ việc, có năng lực lập luận, phản biện tốt để tham gia quá trình tố tụng tại Tòa án;
– Cục trưởng Cục thi hành án dân sự có trách nhiệm chỉ đạo và hỗ trợ các Chi cục thi hành án dân sự trực thuộc trong việc việc tham gia tố tụng giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo triệu tập của Tòa án; khi được triệu tập tham gia tố tụng trong các vụ án giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bồi thường phải báo cáo cơ quan quản lý cấp trên và Tổng cục thi hành án dân sự biết để kịp thời chỉ đạo.
Có thể thấy rằng, để hạn chế đến mức thấp nhất việc bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự khi thực hiện Luật TNBTCNN năm 2017 cơ quan thi hành án dân sự phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên. Song giải pháp quan trọng và cốt yếu nhất chính là thực hiện tốt công tác tổ chức thi hành án, bởi nguyên nhân phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự bắt nguồn từ quá trình tổ chức thi hành án.
Theo http://thads.moj.gov.vn

MAI LOAN (Vụ Nghiệp vụ 3, Tổng cục THADS BTP)