Một số vấn đề đặt ra đối với đổi mới tư duy lập pháp trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Lập pháp luôn là vấn đề quan trọng nhất của mỗi quốc gia, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ sẽ đưa đất nước đó phát triển mạnh mẽ, bền vững và ổn định. Vì vậy, ngay sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân thì Việt Nam chúng ta đã không ngừng xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ để điều chỉnh nhiều mối quan hệ trong xã hội. Tuy nhiên, trải qua gần 80 năm xây dựng và phát triển đất nước, mà đặc biệt là sau hơn ba mươi năm đổi mới và mở cửa tự do nền kinh tế, nhiều vấn đề trong tư duy lập pháp đã không còn phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế xã hội. Do đó, những tư duy cũ cần được đổi mới để phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội hiện nay và đúng với mục tiêu, bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây cũng chính là nội dung mà tác giả muốn đề cập ở bài viết này.

1. Đặt vấn đề

Sau đại hội lần thứ VI của Đảng, đất nước ta chuyển từ kinh tế bao cấp, tập trung sang định hướng kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Từ đây, kinh tế- xã hội  có bước phát triển mới, vì thế những yêu cầu về xây dựng hệ thống pháp luật đòi hỏi cao hơn và phù hợp với tinh thần hội nhập. Một bước tiến rõ nét là nhiều đạo luật mới ra đời, nhất là phải kể đến đó là sự ra đời của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 1998, sau đó là Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 và mới đây nhất là Luật Ban hành VBQPPL năm 2015. Tuy nhiên, nhiều điều bất cập và chưa hợp lý từ quy trình, thủ tục, hình thức văn bản, thẩm quyền ban hành cũng như vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và nhân dân trong việc tham gia vào quy trình xây dựng pháp luật vẫn tồn tại. Từ đó dẫn đến “hệ thống pháp luật tuy cơ bản bao quát, toàn diện, nhưng trên từng lĩnh vực cụ thể chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của thực tiễn, chưa thật thích ứng nhanh và tính ổn định chưa cao. Một số quan điểm, định hướng lớn được đề ra trong các văn kiện của Đảng, quy định của Hiến pháp nhưng việc thể chế hóa còn chưa kịp thời, đầy đủ. Tính đồng bộ, thống nhất, khả thi trong quy định của một số văn bản quy phạm pháp luật chưa cao; chưa khắc phục được triệt để tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu thống nhất giữa một số văn bản luật. Khả năng thích ứng của hệ thống pháp luật trước những biến chuyển nhanh chóng của thực tiễn còn hạn chế. Một số quy định còn bất cập, gây kìm hãm, cản trở sự phát triển nhưng chậm được nghiên cứu, sửa đổi và tháo gỡ”[1].

Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”[2]. Những quan điểm mang tính định hướng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam trong đó có hoàn thiện hệ thống pháp luật, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản để triển khai thực hiện một số vấn đề đặt ra đối với đổi mới tư duy lập pháp trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 bao gồm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”[3]. Như vậy, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đã đề ra rõ ràng, vấn đề là cần  tiếp thu, đổi mới tư duy lập pháp để triển khai thực hiện đúng tinh thần đó, nhằm mang lại sự phát triển mạnh mẽ kinh tế -xã hội cho đất nước và xây dựng, phát triển nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

2. Một số vấn đề đặt ra đối với đổi mới tư duy lập pháp trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

2.1.Đưa thực tiễn cuộc sống vào xây dựng pháp luật.

Các quan hệ xã hội trong cuộc sống vốn rất đa dạng và phức tạp, sôi động và luôn phát sinh. Vì vậy các quy tắc xử sự chung này cần được đưa vào luật hóa để các chủ thể trong xã hội căn cứ vào đó mà ứng xử, pháp luật sẽ tạo hành lang cho các chủ thể được tham gia trong các quan hệ xã hội một cách thoải mái mà không phải từ những áp đặt mang nặng tính quản lý hay cai trị của nhà cầm quyền. Vì đất nước là của nhân dân, do nhân và vì nhân dân, đó cũng chính là bản chất tốt đẹp của nhà nước ta hiện nay. Sự áp đặt pháp luật lên cuộc sống sẽ làm kìm hãm sự phát triển của xã hội, đồng thời tính dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân không còn hay nói cách khác nhà nước đó không phải là của dân, vì dân mà là của nhóm lợi ích trong xã hội, phục vụ cho số ít mà không phải đại đa số dân chúng. Mặt khác việc xây dựng pháp luật từ thực tiễn cuộc sống thể hiện được quan hệ xã hội đó cần được đưa vào vì lợi ích chung của cộng đồng. Nó nói lên việc pháp luật không cho phép được làm vì không phù hợp với đời sống thực tại, ảnh hưởng đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc hay sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, nó xuất phát từ nhu cầu thực của cuộc sống cần pháp luật điều chỉnh. Mặt khác, do từ trước chúng ta đã học cách làm luật của Liên Xô cũ, có nhiều yếu tố mang tính rập khuôn, nặng về tính học thuật, lý luận chuyên sâu, ngữ nghĩa và không chú trọng vấn đề bằng chứng, thực tiễn. Chúng ta vẫn nặng nề yếu tố đưa luật vào cuộc sống từ ý chí chủ quan của cơ quan quản lý nhà nước nói chung và cơ quan soạn thảo luật nói riêng để quản lý đất nước. Vì thế có những thông tư, nghị định, điều luật, bộ luật vừa ra đời có tuổi thọ ngắn ngủi, và bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế và vướng mắc trong áp dụng thực tiễn. Vì vậy hơn bao giờ hết, trong quá trình xây dựng pháp luật, việc quan trọng nhất là đánh giá đúng bản chất thực tiễn của cuộc sống để lấy nhu cầu chung của các chủ thể trong xã hội đưa cuộc sống vào luật trước khi đưa luật vào cuộc sống.

2.2. Xây dựng pháp luật mang tính định hướng và kiến tạo phát triển.

Việc hội nhập quốc tế mạnh mẽ trong những năm gần đây đã đưa đất nước ta bước lên tầm cao mới trên trường quốc tế. Song song đó, hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được hoàn thiện cả về nội dung và quy trình, thủ tục. Từ khi hiến pháp năm 2013 ra đời đến nay, nhiều bộ luật, các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác đã thể chế hóa các nguyên tắc pháp quyền, dân chủ cơ bản của Hiến pháp. Hệ thống pháp luật đã từng bước được hoàn thiện ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích của người dân, doanh nghiệp trong và ngoài nước, nhiều chính sách thu hút đầu tư ngày càng tương thích với các nguyên tắc, chuẩn mực của các điều ước quốc tế và các hiệp định đã kí kết song phương và đa phương. Tuy nhiên để pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn và đóng vai trò quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội thì quá trình lập pháp bắt buộc phải có tính định hướng và kiến tạo phát triển. Nếu thiếu tính định hướng thì pháp luật luôn chạy theo và không đuổi kịp tốc độ phát triển của xã hội, những quy định của pháp luật sẽ lạc hậu, lỗi thời và không thể đáp ứng được nhu cầu cuộc sống. Vấn đề định hướng và dự báo trong pháp luật thể hiện tầm nhìn của quốc gia, mục tiêu chiến lược phát triển đất nước và xây dựng con người mới mang màu sắc Việt Nam. Pháp luật định hướng dựa trên cơ sở thực tiễn để có chiến lược phát triển đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Như trên đã nói hướng tới sâu rộng đưa cuộc sống vào luật, song việc đưa luật vào cuộc sống nhằm mục đích kiến tạo chứ không phải là cai trị và quản lý thì thực sự rất cần thiết. Chúng ta đang xây dựng nhà nước kiến tạo, đi đầu là chính phủ kiến tạo. Để đạt được mục đích này phải bắt đầu từ luật pháp kiến tạo, kiến tạo để các chủ thể có cơ hội cùng với nhà nước phát triển kinh tế hạ tầng và phát triển văn hóa xã hội đất nước. Kiến tạo là đồng hành, đi trước và mở lối cho cuộc sống. Pháp luật kiến tạo là pháp luật chuyển từ quản lý, mệnh lệnh hành chính quan liêu sang pháp luật nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt trọng tâm vào quản lý phát triển - quản trị phát triển - nhà nước phục vụ. Pháp luật là tối thượng, nhà nước vừa là thiết chế quản lý xã hội, vừa là đối tác phát triển, đồng hành và có trách nhiệm đối với mọi chủ thể trong xã hội có sân chơi bình đẳng và luôn có cơ hội để phát triển bản thân và đơn vị.

2.3. Nguyên tắc toàn dân tham gia xây dựng, phản biện hoạt động lập pháp.

Pháp luật là quy tắc xử sự chung cho mọi chủ thể trong xã hội, vì vậy hơn bao giờ hết những quy tắc này phải được chính họ tham gia vào quá trình xây dựng. Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015, quá trình xây dựng pháp luật bao gồm từ khâu đề xuất ý tưởng cho đến quá trình xây dựng dự thảo, lấy ý kiến đóng góp, thẩm định, xem xét thông qua, gửi và lưu. So với quy định của Luật Ban hành VBQPPL năm 1998 và năm 2008 thì quá trình  xây dựng  Luật Ban hanh VBQPPL năm 2015 đã có nhiều thay đổi cả về nội dung lẫn hình thức nhằm bảo đảm việc  xây dựng pháp luật có chất lượng và thực thi có hiệu quả. Tuy nhiên, để cuộc sống đi vào pháp luật và pháp luật đi vào cuộc sống thì việc đẩy mạnh và nâng cao vai trò của người dân và doanh nghiệp trong xây dựng pháp luật là thể hiện tinh thần dân chủ trong xây dựng pháp luật, thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân đối với cuộc sống, đó cũng là đảm bảo quyền con người trong quy định của Hiến pháp năm 2013. Phản biện xã hội có ý nghĩa lớn đối với hoạt động lập pháp. Không có xã hội đồng nhất về lợi ích của tất cả các chủ thể, đặc biệt là trong xã hội mà các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, hợp tác quốc tế phát triển, nền kinh tế thị trường sôi động. Trong đời sống xã hội của quốc gia, pháp luật phải là chuẩn mực xử sự mà theo đó tất cả các chủ thể trong xã hội đều sử dụng để bảo vệ các lợi ích chính đáng của mình. Do vậy, trong xây dựng pháp luật, cần giải quyết những mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa nhiều nhóm lợi ích trong xã hội. Xung đột lợi ích là không thể tránh, nhất là trong nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, ngay trong quá trình lập pháp phải có sự “cân, đong, đo, đếm”, hài hoà giữa các nhóm, các tầng lớp trong xã hội. Giải quyết những xung đột lợi ích này chỉ có thể được thực hiện hiệu quả bằng việc đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết trong xây dựng và thi hành chính sách, pháp luật. Điều này chỉ có thể làm được nếu như các chủ thể trong xã hội được được biết, được tiếp cận, được tham gia ý kiến, đươc kiến nghị, được đối thoại, thể hiện thái độ, ý chí, lợi ích của họ ngay trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Nếu mỗi người dân tin rằng, bản thân vừa tham gia một cách có ý nghĩa vào các quyết định ảnh hưởng đến chính mình thì sẽ sẵn sàng chấp nhận những thay đổi đó hơn. Nói một cách khác, khi người dân trực tiếp tham gia vào phản biện một chính sách hay một quyết định quản lý thì họ sẽ đối xử với chính sách đó như một sản phẩm tự nguyện ràng buộc thi hành. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN phụ thuộc vào những cố gắng của Đảng và Nhà nước cũng như của Nhân dân. Phản biện xã hội là một trong những giá trị cần khai thác trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

2.4. Chuyên nghiệp hóa công tác tác xây dựng pháp luật.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong xây dựng hệ thống pháp luật khá đầy đủ hiện nay, thì nhiều bất cập vẫn còn tồn tại đó là mâu thuẫn, chồng chéo giữa các luật, làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên khó hiểu và khó áp dụng, hiệu lực và hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội thấp. Mặt khác các xung đột, chồng chéo này cũng là những cản trở đối với việc thực hiện pháp luật, làm giảm niềm tin của nhân dân vào pháp luật, tạo cơ hội phát sinh các hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực và tham nhũng. Vì vậy, chiến lược lâu dài sắp tới cần phải đặt ra ngay từ bây giờ là cần chuyên nghiệp hóa đội ngũ làm công tác xây dựng pháp luật.

Mỗi quốc gia có quy định riêng về trình tự thủ tục soạn thảo dự luật. Tuy nhiên, ở một số nước, việc soạn thảo luật được thực hiện rất chuyên nghiệp do những người có chuyên môn đảm nhiệm. “Tại Trung Quốc, việc soạn thảo được thực hiện bởi Ủy ban Pháp chế của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc tại Văn phòng Pháp chế của Hội đồng Nhà nước. Trong bất kỳ trường hợp nào thì việc soạn thảo cũng do một ban đặc biệt soạn thảo, ban này được thành lập với thành phần là chuyên gia kỹ thuật, công chức chính phủ hàng đầu và chuyên gia pháp lý cho từng dự luật cụ thể. Như vậy tính chuyên nghiệp trong soạn thảo văn bản lập pháp thể hiện ngay công tác lựa chọn chuyên gia pháp lý hàng đầu có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn sâu phù hợp”[4]. Trên thực tế, chính sách đúng đắn, nhưng chưa chắc việc quy phạm hoá chính sách đã phản ánh đúng yêu cầu của xã hội, phù hợp với thực tiễn. Từ chủ trương, chính sách đến pháp luật thực định là cả một quá trình người soạn thảo đã tham gia vào mã hóa cụ thể chi tiết của chính sách đó. Giữa chính sách và luật pháp có một khoảng trống, nếu năng lực người soạn thảo không đủ thì quả là một vấn đề tồn tại lớn, dẫn đến chính sách không đi vào điều luật thực định việc này vẫn đang tồn tại ở Việt Nam chúng ta. Soạn thảo văn bản pháp luật là hoạt động khoa học pháp lý chuyên sâu, đồng thời là một nghề đòi hỏi kỹ năng và trình độ chuyên môn rất cao. Thực tế hiện nay đa số các cơ quan đang tổ chức soạn thảo các dự thảo văn bản pháp luật chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu do cán bộ chuyên môn đảm nhiệm, nên còn nhiều hạn chế về kỹ thuật lập pháp. Chuyên nghiệp hóa trong soạn thảo văn bản là bảo đảm giảm thiểu những sai sót trong kỹ thuật lập pháp và bảo đảm việc chuyển tải chính sách thành ngôn ngữ pháp lý chuyên dùng. Ngoài việc quy trình thủ tục soạn thảo văn bản phải chuẩn hóa chuyên nghiệp thì cần phải có con người được đào tạo, làm việc chuẩn hóa về năng lực pháp lý và vốn sống thực tiễn, tránh tình trạng soạn thảo văn bản trong “phòng lạnh” và khi đưa ra thực tế cuộc sống đã vội “nóng chảy tan” và luật đã không đi vào cuộc sống.

3. Kết luận.

Tóm lại, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một yêu cầu cấp bách, quan trọng mà sự phát triển, hội nhập của đất nước đặt ra trong bối cảnh mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi và xuất phát từ những giá trị phổ quát của nhân loại và những đặc thù của Việt Nam trong việc kế thừa những giá trị đó. Trong số những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN được các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam đề cập là “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và “chủ quyền nhân dân”. Cả hai đặc trưng này chi phối nhiều định hướng, giải pháp cụ thể để đảm bảo hiện thực hóa chủ quyền nhân dân. Để làm được điều đó đòi hỏi công tác lập pháp phải không ngừng đổi mới về nhận thức và cách thực hiện, đưa cuộc sống vào luật, xây dựng hệ thống pháp luật kiến tạo và phát triển, đảm bảo tiếng nói phản biện của công dân là một trong những giải pháp không thể thiếu, vì nhân dân là đối tượng phục vụ của nhà nước. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN phụ thuộc vào những cố gắng của Đảng và Nhà nước cũng như của Nhân dân. Vì vậy sự phồn thịnh của đất nước sẽ biểu hiện rõ ở trình độ lập pháp trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân mà Đảng và Nhà nước đang tiến hành.

Quốc hội nghe báo cáo giải trình - Ảnh: Qh.vn

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chủ tịch quốc hội Vương Đình Huệ, Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội nhằm hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, tạo lập khung khổ pháp lý vững chắc để đất nước phát triển và hội nhập, Tạp chí Cộng sản (15:45 01/03/2022) https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-doi-moi-hoat-dong-lap-phap-cua-quoc-hoi-nham-hoan-thien-dong-bo-the-che-phat-trien-tao-lap-khung-kho-phap-ly-vung-chac-de-dat-nuoc-phat-trien

2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII, NXB CTQGST, T.1, TR.174-175 (2021)

3. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: Sđd, 2, t.1, tr.284-285

4. Bùi Thu Hằng, Chuyên nghiệp hóa trong soạn thảo VBPL, từ kinh nghiệm quốc tế đến bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Bộ Tư pháp (18/10/2019) https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2499


[1] Chủ tịch quốc hội Vương Đình Huệ, Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội nhằm hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, tạo lập khung khổ pháp lý vững chắc để đất nước phát triển và hội nhập, Tạp chí Cộng sản (15:45 01/03/2022)

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-doi-moi-hoat-dong-lap-phap-cua-quoc-hoi-nham-hoan-thien-dong-bo-the-che-phat-trien-tao-lap-khung-kho-phap-ly-vung-chac-de-dat-nuoc-phat-trien

[2] ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII, NXB CTQGST, T.1, TR.174-175 (2021)

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, 2, t.1, tr.284-285

[4] Bùi Thu Hằng, Chuyên nghiệp hóa trong soạn thảo VBPL, từ kinh nghiệm quốc tế đến bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Bộ Tư pháp (18/10/2019) https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2499

 

PHAN VĂN LÂM (P. Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật và hòa giải, Viện nghiên cứu pháp luật và kinh tế Asean)