Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bài viết phân tích nội dung, phân định ranh giới của nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự so với các nguyên tắc khác trong chế định những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự; đồng thời làm rõ ý nghĩa, yêu cầu mà các vấn đề của tố tụng hình sự hiện đại đặt ra đối với việc điều chỉnh nội dung nguyên tắc này.

1. Nội dung nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự

Khởi tố vụ án hình sự là sự khởi động tiến trình tố tụng hình sự, cung cấp toàn bộ “đầu vào” cho các công đoạn giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nguồn “đầu vào” này nếu không được xử lý đúng cách sẽ dẫn tới tình trạng bỏ lọt tội phạm cũng như làm chậm sự can thiệp của Nhà nước trong việc xử lý tội phạm, làm suy giảm hiệu quả bảo vệ nạn nhân và gia tăng nguy cơ thiệt hại cho các quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức liên quan. Do đó, cần điều chỉnh hợp lý những mối quan hệ xã hội phát sinh trong thời điểm đầu tiên của tố tụng hình sự. Theo mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm (crime-control criminal justice) và hình thức tố tụng thẩm vấn (inquisitorial system), Việt Nam coi trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, khẳng định sự hiện diện của nguyên tắc này xuyên suốt quá trình pháp điển hóa luật tố tụng hình sự từ năm 1988 đến nay. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự lần đầu được ghi nhận trong chế định “Những nguyên tắc cơ bản” (Điều 13 Chương 1) Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988 và tiếp tục được quy định trong lần pháp điển hóa thứ hai cũng trong chế định “Những nguyên tắc cơ bản” (Điều 13 Chương 2) BLTTHS năm 2003. Đến BLTTHS năm 2015, nguyên tắc này được quy định như sau: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”.

Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự là những quan điểm mang tính định hướng đối với hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, phản ánh nguyên lý khách quan của tố tụng hình sự, được ghi nhận trong BLTTHS, về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các biện pháp luật định để khởi tố vụ án hình sự và thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội một cách chủ động, hiệu quả. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự đề cập tới các vấn đề sau đây: Một là, khởi tố và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự các đối tượng phạm tội là trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Hai là, phải khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm và phải theo các căn cứ và trình tự, thủ tục luật định. Xử lý vụ án hình sự hay giải quyết vụ án hình sự bao gồm các hoạt động tố tụng, các giai đoạn tố tụng khác nhau để cùng hướng tới việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, trong xử lý vụ án hình sự có khởi tố vụ án hình sự; để xử lý vụ án hình sự, truy cứu trách nhiệm hình sự các đối tượng phạm tội thì phải khởi tố vụ án. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của hoạt động khởi tố do những khó khăn đặc thù của giai đoạn khởi tố, nguyên tắc này đặc biệt nhấn mạnh tới trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự.

Về nội dung thứ nhất của nguyên tắc, khởi tố và xử lý vụ án hình sự là trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nội dung này khẳng định trách nhiệm của Nhà nước. Nhìn lại lịch sử tố tụng, khi xã hội đạt tới trình độ văn minh cao hơn, chuyển từ hình thức tố tụng tố cáo (accusatorial system) sang hình thức tố tụng xét hỏi, Nhà nước không còn thụ động với vai trò tài phán trong vụ án hình sự như trước mà từng bước đảm nhận vai trò khởi tố, điều tra, truy tố và thi hành án hình sự, trở thành chủ thể chủ yếu, chủ động phát động vụ án hình sự khi phát hiện có tội phạm xảy ra. “Tố tụng xét hỏi là một sự phát triển của xã hội về mặt tố tụng hình sự. So với tố tụng tố cáo, tố tụng xét hỏi làm cho trật tự xã hội được bảo đảm hơn”. Vai trò mới của Nhà nước trước hết xuất phát từ lợi ích của Nhà nước. Tội phạm không chỉ là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân (private affairs) mà tội phạm còn xâm hại trật tự xã hội được Nhà nước thiết lập để bảo vệ lợi ích của chính Nhà nước. Việc Nhà nước là chủ thể chính của khởi tố, xử lý vụ án hình sự còn thể hiện trách nhiệm xã hội của Nhà nước - trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và các cá nhân trong xã hội. Trở thành “trách nhiệm”, Nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy do Nhà nước lập ra và giao quyền) phải khởi tố, xử lý vụ án hình sự và người phạm tội - đây không còn là hoạt động mang tính chất tùy nghi. Khởi tố vụ án hình sự là nghĩa vụ, yêu cầu phải được thực hiện một cách chủ động, đầy đủ, kịp thời, nếu không, sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm và không kiểm soát được tội phạm, lợi ích của Nhà nước, xã hội và cá nhân sẽ không được bảo đảm. Nguyên tắc này “đồng thời khẳng định ngoài các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được khởi tố, xử lý tội phạm. Nói khác đi, tố tụng hình sự Việt Nam không chấp nhận tư tố, không trao quyền khởi tố, truy tố tội phạm cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào ngoài các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.

Về nội dung thứ hai của nguyên tắc, việc khởi tố vụ án hình sự nói riêng và xử lý vụ án hình sự nói chung phải theo các căn cứ, trình tự, thủ tục luật định. Đây là yêu cầu được đặt ra nhằm hướng tới “mục tiêu kép”: Bảo đảm hiệu quả hoạt động tố tụng, cũng như sử dụng hiệu quả nguồn lực tố tụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; bảo đảm không xâm phạm trái phép đời sống dân sự của cá nhân, phòng ngừa các nguy cơ lạm quyền của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Mục tiêu thứ nhất - bảo đảm hiệu quả hoạt động tố tụng, đòi hỏi hiệu suất cao của bộ máy tố tụng, với tỉ lệ buộc tội thành công cao, độ chênh giữa số tội phạm xảy ra với số tội phạm được phát hiện, giữa khởi tố (đầu vào) với kết án và trừng trị (đầu ra) thấp, không được bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Việc sử dụng hiệu quả nguồn lực tố tụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm chỉ đạt được khi nguồn lực tố tụng không bị sử dụng một cách phung phí vào những sự việc chỉ thuần túy là vi phạm pháp luật nhỏ (minor offense) hoặc có thể xử lý bằng những phương thức khác (xử lý chuyển hướng). Khâu khởi tố vụ án hình sự nếu làm tốt có thể góp phần đáng kể trong việc đạt được mục tiêu trên, nếu trả lời được đúng và sớm câu hỏi có hay không dấu hiệu của tội phạm. Trả lời đúng câu hỏi trên sẽ bảo đảm cho quá trình tố tụng xử lý đúng việc, đúng người, còn trả lời sớm sẽ kích hoạt bộ máy tố tụng hình sự để khẩn trương tiến hành các biện pháp điều tra, biện pháp ngăn chặn hoặc bộ máy này sẽ kịp thời dừng lại, chuyển nguồn lực tố tụng sang các vụ việc, vụ án khác. Mục tiêu thứ hai - bảo đảm không xâm phạm trái phép đời sống dân sự của cá nhân, đòi hỏi sự kiểm soát và hạn chế quyền lực tố tụng: Không hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại, không xử lý hình sự các hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, không thực hiện các biện pháp điều tra ban đầu, các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế khác không có căn cứ. Nếu cho phép tiến hành tố tụng, mở cuộc điều tra trên cơ sở một “đơn khởi tố” của nhân dân hay bất kỳ một tin báo nào về một tội phạm hình sự đã xảy ra để “khởi động quyền công tố” - việc khởi đầu tố tụng hình sự đó không thể tránh khỏi sự tùy tiện. Nguy cơ lạm quyền đối với quyền lực tố tụng trong giai đoạn khởi tố là rất đáng kể do giai đoạn này chưa có đủ các thông tin về tội phạm, trong khi đó, vẫn phải áp dụng kịp thời các biện pháp điều tra mang tính cưỡng chế và ngăn chặn tội phạm.

2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự với một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự Việt Nam

Với các nội dung và ý nghĩa như trên, có thể coi nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự là một trong các nguyên tắc định tính mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm, yêu cầu bộ máy tố tụng phải chủ động, tích cực giải quyết tội phạm, kiểm soát tội phạm hiệu quả, không bỏ lọt tội phạm. Nguyên tắc cũng yêu cầu hoạt động khởi tố vụ án hình sự nói riêng và quá trình khởi tố vụ án nói chung phải tuân thủ quy định của BLTTHS về căn cứ cũng như về trình tự, thủ tục. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự không mới. Tuy nhiên, xét một cách khách quan, có thể thấy nguyên tắc này vừa có điểm riêng, vừa có điểm giao thoa với các nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án, nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 15 BLTTHS năm 2015) đề cập tới một nội dung đặc biệt quan trọng, thể hiện một nguyên lý cơ bản, quan trọng của tố tụng hình sự, đó là chủ thể của trách nhiệm chứng minh. Theo Điều 15 BLTTHS năm 2015: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Nội dung trên trùng với nội dung thứ nhất của nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự khi xác định chủ thể trách nhiệm này là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, khi nói tới chủ thể trách nhiệm chứng minh là muốn nhấn mạnh tới chủ thể “trách nhiệm chứng minh lỗi”. Trách nhiệm chứng minh lỗi là nghĩa vụ của bên đưa ra lời cáo buộc, mà không phải là nghĩa vụ của bên phủ định lời cáo buộc, nói cách khác, trách nhiệm chứng minh thuộc về bên khẳng định, không phải bên phủ định”. Còn khi nói tới chủ thể trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự là muốn nhấn mạnh tới cả nghĩa vụ thụ lý, giải quyết vụ án, nghĩa vụ ngăn chặn, trừng trị tội phạm của bộ máy tố tụng, mà không chỉ là nghĩa vụ buộc tội, thu thập chứng cứ để truy cứu người phạm tội của chủ thể buộc tội. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự còn đặc biệt đề cao yếu tố “trách nhiệm”: Phải khởi tố, phải xử lý vụ án hình sự mà không được thoái thác, bỏ mặc, chậm muộn, tắc trách trong khởi tố, xử lý vụ án hình sự. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự cũng tập trung vào yêu cầu không bỏ lọt tội phạm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, mà nội dung này không có trong nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.

Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 20 BLTTHS năm 2015) đề cập tới hai nội dung thuộc chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Trong đó, nội dung thực hành quyền công tố của nguyên tắc này cũng nhấn mạnh trách nhiệm truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý người và pháp nhân phạm tội như nội dung nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Tuy nhiên, có thể nói, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là nguyên tắc xác định vị thế, vai trò và nhiệm vụ của một cơ quan tiến hành tố tụng quan trọng - Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Quyền công tố thuộc về Nhà nước, Nhà nước giao cho một cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện quyền này và cơ quan này sẽ có chức năng thực hành quyền công tố. Nói cách khác, thực hành quyền công tố là chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan nhà nước nhất định; tại Việt Nam, cơ quan này là VKSND. “Thực hành quyền công tố là việc thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó”. Thực hành quyền công tố là trách nhiệm duy nhất thuộc về VKSND và được BLTTHS năm 2015 nhấn mạnh vào thẩm quyền “quyết định việc buộc tội”. Đối với VKSND, đây là “độc quyền” và cũng là trách nhiệm nặng nề với yêu cầu không chỉ đúng pháp luật, không để lọt tội phạm mà còn phải đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội mà nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự chưa đặt ra.

Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 7 BLTTHS năm 2015) yêu cầu mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS, không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Nguyên tắc này giao thoa với nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự ở hai nội dung: Yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng để giải quyết vụ án hình sự một cách hợp pháp; yêu cầu việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố phải theo các căn cứ và trình tự, thủ tục luật định. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc lớn - nội dung, ý nghĩa của nó mang tính chất bao trùm rất nhiều nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Tính chất bao trùm của nguyên tắc này xuất phát từ giá trị tích hợp của BLTTHS; tuân thủ quy định của BLTTHS cũng có nghĩa là tuân thủ tất cả các quan điểm, chính sách hình sự, các mục tiêu, nhiệm vụ của tố tụng hình sự được tích hợp và quy định cụ thể trong BLTTHS. Tuy nhiên, nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự không đề cập tới nội dung được nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự nhấn mạnh, đó là trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự khi phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm (yêu cầu sự chủ động, tích cực, hiệu quả của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, mà không chỉ đòi hỏi sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan này).

3. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự và các yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự trong bối cảnh hiện nay

Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự đòi hỏi trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Đây là nguyên tắc mà về nội dung, vừa khẳng định các giá trị và ưu việt của mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm trong toàn bộ quá trình xử lý vụ án hình sự, vừa tập trung vào khởi tố - giai đoạn tố tụng đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng của tố tụng hình sự. Là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc này đã và đang được cụ thể hoá trong hoạt động xây dựng pháp luật tố tụng hình sự và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế hiện nay, một số vấn đề cần được đặt ra nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự cũng như chính nguyên tắc này.

Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về việc xác định Tòa án là cơ quan có trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Nguyên tắc đặt Tòa án trong số các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự khi phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm. Trên cơ sở đó, Điều 153 BLTTHS năm 2015 quy định: Tòa án (Hội đồng xét xử) ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Việc Tòa án có thẩm quyền này là cần thiết nếu xét từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, không bỏ lọt tội phạm.

Tuy nhiên, khởi tố là khởi động tiến trình buộc tội, Tòa án đang làm công việc của chủ thể buộc tội, trong khi Tòa án phải đứng ở vị thế của chủ thể xét xử, ở vị trí khách quan và trung lập giữa chủ thể buộc tội và chủ thể gỡ tội. Việc trao cho Tòa án thẩm quyền khởi tố vụ án và các thẩm quyền khác trong quá trình xét xử vụ án hình sự (như trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, thu thập, bổ sung chứng cứ…) cho thấy đặc trưng của tố tụng thẩm vấn với sự không tách bạch các chức năng khác nhau của tố tụng hình sự và các chủ thể được trao các chức năng khác nhau của tố tụng hình sự. Trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay, theo xu thế mở rộng tranh tụng, tiếp nhận yếu tố tranh tụng vào mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống tại Việt Nam, với cách tiếp cận của nguyên tắc này, Tòa án đang không đứng ở vị trí khách quan và trung lập giữa chủ thể buộc tội và chủ thể gỡ tội để bảo đảm tranh tụng trong xét xử, “BLTTHS năm 2015 vẫn quy định Tòa án cũng có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là hạn chế đáng tiếc”. Việc không phân biệt rạch ròi Tòa án với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác là chủ thể của trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự cần được xem xét để điều chỉnh phù hợp.

Thứ hai, việc đặt ra yêu cầu đối với sản phẩm chứng minh của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự đang có mâu thuẫn giữa thực tiễn tố tụng và lý luận về khởi tố vụ án hình sự. Nguyên tắc yêu cầu khi phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm thì phải tiến hành khởi tố vụ án hình sự, Điều 143 BLTTHS năm 2015 yêu cầu khởi tố vụ án khi xác định có dấu hiệu của tội phạm. Về mặt lý luận, điểm kết của giai đoạn khởi tố là thời điểm quyết định khởi tố vụ án hình sự được ban hành khi xác định có dấu hiệu của tội phạm. So với điểm kết của các giai đoạn tố tụng khác, tại điểm kết của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, sự thật của vụ án được làm sáng tỏ ở mức độ thấp nhất, do yếu tố khách quan khởi tố vụ án chỉ là giai đoạn tố tụng đầu tiên, mức độ chứng minh đặt ra đối với giai đoạn tố tụng này cũng chỉ là xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm. Thậm chí, có quan điểm cho rằng, “quyết định khởi tố vụ án hình sự là cái mốc đầu tiên cho phép tiến hành các hoạt động tố tụng, thực hiện các hoạt động điều tra. Chưa có quyết định khởi tố thì chưa có vụ án”.

Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng đang nhận thức chưa đúng về mức độ chứng minh ở điểm kết của giai đoạn khởi tố, đang đòi hỏi phải rõ hơn nhiều so với mức độ xác định “có dấu hiệu của tội phạm”, tức là đang đòi hỏi mức độ ngày càng cao đối với hiệu suất phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và người phạm tội. Điều này có mặt tích cực là buộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự; tuy nhiên, cũng có mặt tiêu cực là nếu không được kiểm soát tốt, sẽ dẫn tới việc thực hiện hình thức. Việc này tuân theo nguyên lý giảm, lùi đầu vào (giảm số lượng thống kê tố giác, tin báo về tội phạm, lùi thời điểm tiếp nhận tố giác, tin báo, kéo dài thời gian thực tế cho giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm để bảo đảm tính chắc chắn, tính an toàn cho quyết định khởi tố vụ án hình sự cũng như các quyết định tố tụng khác về sau). Thực tế trên vừa phản ánh các đặc trưng về mặt lý thuyết của mô hình kiểm soát tội phạm (luôn đòi hỏi tỉ lệ truy cứu tội phạm, tỉ lệ kiểm soát tội phạm ở mức độ cao), vừa phản ánh điểm bất hợp lý trong cách tiếp cận quy định về tiêu chuẩn chứng minh tiệm cận giá trị tuyệt đối (xác định sự thật của vụ án toàn diện và đầy đủ), cũng như ít nhiều phản ánh sự tồn tại của tư duy kế hoạch chỉ huy, chỉ tiêu pháp lệnh trước đây trong điều hành một lĩnh vực mà vốn luôn cần có sự khác biệt và phản biện giữa các chủ thể thực hiện các chức năng khác nhau, thậm chí đối lập nhau của tố tụng hình sự.

Thứ ba, trách nhiệm khởi tố vụ án được đặt ra trong mọi trường hợp phát hiện có dấu hiệu của tội phạm. Trách nhiệm này đòi hỏi không được chậm trễ, trì hoãn, không để tội phạm bị bỏ lọt, đây là điều vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi “pháp luật không chỉ là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội..., luật pháp đã dần dần trở thành công cụ của người dân để giải quyết các xung đột, công cụ để mưu cầu lợi ích cho cá nhân, cộng đồng và doanh nghiệp”, việc khởi tố nói riêng và xử lý hình sự nói chung đối với tất cả các hành vi có dấu hiệu của tội phạm là chưa phù hợp. Tư pháp hình sự hiện đại đang đặt ra những yêu cầu mới về tính nhân văn, linh hoạt, mềm dẻo cũng như tính kinh tế của hoạt động tố tụng. Tính nhân văn trong chính sách hình sự đặt ra với người phạm tội do vô ý, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc có hoàn cảnh quá khó khăn; tính linh hoạt, mềm dẻo trong khởi tố và xử lý vụ án hình sự đặt ra trong xử lý chuyển hướng người dưới 18 tuổi phạm tội. Tính linh hoạt, mềm dẻo trong khởi tố và xử lý vụ án hình sự cũng cần được thể hiện trong một số trường hợp khắc phục được hậu quả, thu hồi được tài sản tham nhũng, trong giải quyết hài hòa trách nhiệm hình sự, dân sự của pháp nhân thương mại phạm tội thực hiện các tội phạm về kinh tế, môi trường. Sự mở rộng phạm vi khởi tố theo yêu cầu của bị hại, thậm chí tư tố như một số quốc gia trên thế giới trong các vụ án xâm phạm không nghiêm trọng quyền nhân thân, quyền tài sản của cá nhân còn bảo đảm yêu cầu về tính kinh tế của hoạt động tố tụng. Yêu cầu tôn trọng hòa giải giữa các bên trong một số loại án hình sự về tội phạm tình dục, bạo lực gia đình cũng đòi hỏi không phải tuyệt đối mọi trường hợp đều khởi tố và xử lý vụ án hình sự khi phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm.

Như vậy, nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự là sự thể hiện chính sách hình sự về tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, không bỏ lọt tội phạm. Chính các điểm riêng, các điểm giao thoa của nguyên tắc này tạo nên diện mạo của tố tụng hình sự Việt Nam với sự nhất quán yêu cầu kiểm soát tội phạm và đề cao vai trò của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cùng thực hiện nhiệm vụ truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, cùng trên chiến tuyến đấu tranh phòng, chống tội phạm. Sự hiện diện của nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong chế định những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là cần thiết. Tuy nhiên, với bối cảnh của cải cách tư pháp theo hướng mở rộng tranh tụng, với yêu cầu mới về tính nhân văn, linh hoạt, mềm dẻo cũng như tính kinh tế của hoạt động tố tụng, một số nội dung xoay quanh nguyên tắc này cũng cần được cân nhắc điều chỉnh cho phù hợp.

Theo Kiemsat.vn

Công an công bố Quyết định khởi tố bị can - CANĐ

 

TS. LÊ LAN CHI