Bàn về biện pháp “tạm giam” trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự và kiến nghị, đề xuất

BLTTHS quy định cụ thể về thẩm quyền, đối tượng, thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho Tòa án các cấp trong quá trình xét xử; tuy nhiên qua thực tiễn công tác thụ lý, giải quyết án vẫn còn một số vướng mắc, bất cập.

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng trong một số trường hợp được quy định cụ thể tại Điều 119 BLTTHS. Có thể thấy rằng, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, bởi nó tước bỏ quyền tự do thân thể và một số quyền khác của con người trong thời hạn luật định.

1. Vướng mắc, bất cập

Một là, quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm giữa BLTTHS và Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán ToANDTC “Ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của BLTTHS” còn chưa thống nhất.

Tại khoản 3 Điều 278 BLTTHS quy định: “Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa”. Như vậy trong trường hợp này, thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam thuộc về Hội đồng xét xử (HĐXX). Tuy nhiên căn cứ theo Mẫu số 05-HS ban hành kèm theo Nghị quyết số 05 về “Quyết định tạm giam (áp dụng biện pháp tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm đối với bị cáo đang bị tạm giam)” thì thẩm quyền áp dụng lại thuộc về Chánh án.

Hai là, quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử để áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm chưa thống nhất dẫn đến thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử phúc thẩm còn có quan điểm khác nhau.

Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 278 BLTTHS “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật này”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 277 BLTTHS thì thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định rất cụ thể, đó là thời hạn được tính từ khi thụ lý vụ án cho đến khi ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử; Trả hồ sơ điều tra bổ sung; Tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án (cụ thể là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).

Trong xét xử phúc thẩm: Khoản 2 Điều 347 BLTTHS quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 346 của Bộ luật này”. Như vậy trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, BLTTHS không quy định cụ thể (về khoản của Điều luật áp dụng) như trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; việc quy định như vậy dẫn đến có 02 quan điểm áp dụng khác nhau:

- Quan điểm thứ nhất: Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày vào sổ thụ lý vụ án đến khi mở phiên tòa (60 ngày đối với TAND cấp tỉnh, TAQS cấp Quân khu; 75 ngày đối với TANDCC, TAQSTW) theo quy định tại khoản 1 Điều 346 BLTTHS.

- Quan điểm thứ hai: Áp dụng theo quy định tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày vào sổ thụ lý cho đến khi ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử, Đình chỉ xét xử phúc thẩm, quy định tại khoản 2 Điều 346 BLTTHS (cụ thể 45 ngày đối với TAND cấp tỉnh, TAQS cấp Quân khu; 75 ngày đối với TANDCC, TAQSTW).

Ba là, việc áp dụng biện pháp tạm giam thuộc thẩm quyền của HĐXX vẫn còn vướng mắc, bất cập.

Điều 299 BLTTHS quy định về việc ra bản án, quyết định của Tòa án:

1. Bản án phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.

2. Quyết định về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa, bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và được lập văn bản.

3. Quyết định các vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án không phải lập văn bản nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa”.

Theo quy định trên mọi quyết định của Tòa án từ khi có HĐXX phải được HĐXX thảo luận, thông qua. Quyết định tạm giam thuộc “Quyết định các vấn đề khác” được quy định tại khoản 3 Điều 299. Như vậy, đối với vụ án được tổ chức xét xử thì quyết định tạm giam (nếu có) được HĐXX thảo luận và thông qua tại phòng xử án không phải lập văn bản nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa; tuy nhiên đối với vụ án thuộc trường hợp chưa đến ngày mở phiên tòa mà thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX có phải thảo luận để ra quyết định tạm giam hay không? Việc thảo luận đó có lập thành văn bản không?

2. Kiến nghị, đề xuất

Từ những vướng mắc, bất cập trên tác giả xin đưa ra một số kiến nghị, đề xuất:

Một là, sửa đổi Mẫu biểu số 05-HS ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC cho phù hợp với quy định của BLTTHS về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam của HĐXX.

Hai là, sửa đổi khoản 2 Điều 347 BLTTHS về thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm phù hợp với quy định của BLTTHS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, cụ thể:

Điều 347. Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế

….2. Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 2 Điều 346 của Bộ luật này….”

Ba là, bổ sung biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” vào khoản 2 Điều 299 BLTTHS theo hướng: quyết định tạm giam là quyết định quan trọng và khi có HĐXX phải được HĐXX thảo luận, thông qua để đảm bảo tính dân chủ, quyết định theo đa số trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp; đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện thẩm quyền của HĐXX trong trường hợp chưa đến ngày mở phiên tòa mà thời hạn tạm giam đã hết. Theo đó khoản 2 Điều 299 sẽ được viết lại là:

“…2. Quyết định về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa, tạm giam, bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và được lập văn bản.”…

 

Dẫn giải các bị cáo đến phiên toà sơ thẩm xét xử vụ buôn lậu xăng dầu tại Đồng Nai - Ảnh: Ngọc Tú

 

BÙI VIẾT VINH (Tòa án quân sự Quân khu 5)