Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – từ quy định đến thực tiễn

Bài viết phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng ở giai đoạn xét xử và đề xuất, kiến nghị.

1. Quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú của một số nước

Ở các nước như Trung Quốc và Liên bang Nga đều quy định cụ thể nghĩa vụ phải cam đoan thực hiện đối với bị can, bị cáo khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Theo đó, bị can, bị cáo phải có mặt kịp thời khi được triệu tập; tuân thủ quy định không được rời khỏi địa điểm cấm đi khỏi nơi cư trú; không được thực hiện các hoạt động bằng bất cứ hình thức nào cản trở hoạt động tố tụng.

Thời hạn áp dụng cấm đi khỏi nơi cư trú tối đa không quá 06 tháng [1] (Trung Quốc). Ngoài ra, Trung Quốc quy định cụ thể bị can, bị cáo không được gặp gỡ hoặc thông tin với người khác khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền; không được gây cản trở đối với người làm chứng dưới bất kỳ hình thức nào; không được tiêu hủy, làm giả chứng cứ hoặc thông cung; giao nộp giấy tờ xuất nhập cảnh cho cơ quan thực thi cất giữ. Nếu bị can, bị cáo vi phạm những quy định trên thì có thể bị bắt giam. Cơ quan thực thi có thể giám sát tình trạng tuân thủ quy định cấm đi khỏi nơi cư trú của bị can, bị cáo bằng các biện pháp giám sát điện tử, kiểm tra bất thường.[2]

Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Liên bang Nga quy định: Bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nếu không thực hiện hoặc vi phạm nghĩa vụ liên quan đến việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị sung quỹ Nhà nước theo quyết định của Tòa án căn cứ vào Điều 118 BLTTHS Liên bang Nga [3].

Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước, các nhà làm luật Việt Nam đã bổ sung thời hạn đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhằm bảo đảm mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải bị ràng buộc bởi thời hạn; quy định cụ thể nghĩa vụ của bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; đồng thời bổ sung chế tài đối với những người này nhằm phát huy hiệu quả các biện pháp ngăn chặn không giam giữ.

2. Quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

2.1. Khái niệm

Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định tại Điều 123 BLTTHS năm 2015. Theo đó, khoản 1 Điều 123 định nghĩa: “Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án”.

Khác với các biện pháp tạm giữ, tạm giam, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú có điểm khác biệt là không cách ly bị can, bị cáo khỏi gia đình, xã hội và họ vẫn được tiếp tục làm việc, nhưng đổi lại họ bị hạn chế quyền tự do cư trú và đi lại của mình trong một thời hạn nhất định.

Mục đích của các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nói riêng nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.

Tham khảo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), thì: Có nơi cư trú rõ ràng được hiểu là: Nơi cư trú là nơi tạm trú hoặc thường trú theo quy định của Luật Cư trú mà bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú đang cư trú, sinh sống thường xuyên trong thời gian trước khi bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú. Nơi cư trú rõ ràng là nơi cư trú có địa chỉ được xác định cụ thể.

Cấm đi khỏi nơi cư trú thường là cấm đi khỏi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của bị can, bị cáo, nhưng cũng có trường hợp được hiểu là cấm đi khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ như: Người ở một địa phương trong nước về Hà Nội làm ăn, sinh sống, họ có nhà, có đăng ký tạm trú tại địa bàn Hà Nội và bị khởi tố với tư cách bị can, bị cáo thì nơi cư trú trong trường hợp này được hiểu là chỗ ở thường xuyên của họ ở Hà Nội. Phạm vi cấm đi khỏi nơi cư trú là cấm đi khỏi xã, phường, thị trấn mà bị can, bị cáo đăng ký thường trú hoặc nơi ở thường xuyên.[4]

Chúng tôi cho rằng, việc xác định nơi cư trú chỉ mang tính chất tương đối, vì trong nhiều trường hợp bị can, bị cáo cư trú tại địa bàn (phường 19, quận B, thành phố H) bị cấm đi khỏi nơi cư trú, nhưng họ làm việc và phải di chuyển đến nơi làm việc (phường 6, quận 3, thành phố H) không cùng địa bàn cư trú. Trường hợp này xảy ra phổ biến đối với các địa bàn ở thành phố. Chính vì vậy, người có thẩm quyền khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, cần phải linh hoạt trong việc áp dụng, hướng tới mục đích nhằm bảo đảm bị can, bị cáo không bỏ trốn hoặc phát hiện kịp thời nếu bỏ trốn để truy nã. Theo chúng tôi, trường hợp trên lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, bị cáo là phường 19, quận B nhưng cũng phải cho phép họ được phép ra khỏi nơi cư trú với mục đích di chuyển đến nơi làm việc tại phường 6, quận 3 và ngược lại. Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0), chúng tôi cho rằng CQTHTT cần sớm hướng tới biện pháp quản lý, giám sát người bị cấm đi khỏi nơi cư trú bằng các biện pháp điện tử, kiểm tra bất thường như nhiều nước đã và đang thực hiện.

2.2. Đối tượng và điều kiện áp dụng

Quy định tại khoản 1 Điều 123 BLTTHS năm 2015 không giới hạn việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú chỉ trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hay nghiêm trọng và cũng không cấm áp dụng đối với trường hợp bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Chính vì vậy, có quan điểm cho rằng, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng đối với mọi loại tội phạm [5].
Tuy nhiên, nếu sử dụng phương pháp loại trừ, khi so sánh với biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015 [6]. Chúng tôi cho rằng, việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú chỉ có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt, có lý lịch rõ ràng, thái độ khai báo thành khẩn và có đủ cơ sở cho rằng họ không bỏ trốn, gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội. Theo đó, “phạm tội lần đầu” được hiểu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. “Phạm tội ít nghiêm trọng” được hiểu là phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 03 năm tù; hoặc phạm tội tuy thuộc trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm. [7]
Theo quy định tại khoản 2 Điều 123 BLTTHS năm 2015, thì bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ sau:

– Thứ nhất, không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép.

– Thứ hai, có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan.

– Thứ ba, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội.

– Thứ tư, không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trong trường hợp nếu bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ cam đoan nêu trên thì họ sẽ bị tạm giam.

2.3. Thẩm quyền

Theo quy định tại khoản 3 Điều 123 BLTTHS năm 2015, thì ngoài những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX); Đồn trưởng Đồn biên phòng có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Như vậy, thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú khi Tòa án thụ lý vụ án nhưng chưa phân công Thẩm phán giải quyết thuộc về Chánh án, Phó Chánh án [8], còn trước khi mở phiên tòa thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa [9] và tại phiên tòa thuộc về HĐXX.

2.4. Thủ tục áp dụng

Khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, các CQTHTT phải tuân thủ các trình tự thủ tục sau:

– Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 123 BLTTHS năm 2015 như đã nêu ở mục 2.2.

– CQTHTT áp dụng biện pháp này phải có lệnh thể hiện bằng hình thức văn bản. Tuy nhiên, đến nay TANDTC vẫn chưa ban hành biểu mẫu về lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để các Tòa án địa phương áp dụng một cách thống nhất trên cả nước. Cụ thể: Từ Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần “xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003 (ban hành kèm theo 12 biểu mẫu), cho đến Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “xét xử phúc thẩm” của BLTTHS năm 2003 (ban hành kèm theo 11 biểu mẫu) và nay là Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của BLTTHS năm 2015 (ban hành kèm theo 60 biểu mẫu) đều không có biểu mẫu về lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Theo chúng tôi, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cần phải có những nội dung cơ bản sau: Ghi rõ căn cứ áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, tên của xã phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo đang cư trú, các nghĩa vụ mà bị can, bị cáo phải chấp hành, hậu quả của việc không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết, thời hạn bị cấm đi khỏi nơi cư trú.[10]

– Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.

– Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Tuy nhiên, quy định tại Điều 4 BLTTHS năm 2015 không giải thích như thế nào được coi là lý do “bất khả kháng” hay “trở ngại khách quan”. Thế nhưng, trên thực tiễn có thể xảy ra một số tình huống như: (1) Bị can, bị cáo trong thời gian bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị tai nạn, bệnh tật,… cần phải chuyển tuyến bệnh viện để điều trị theo ý kiến của bác sĩ; (2) Người thân thích của bị can, bị cáo ở một địa phương khác bị tai nạn, bệnh tật, chết,… trong thời gian họ bị cấm đi khỏi nơi cư trú; (3) Nơi cư trú của bị can, bị cáo gặp phải thiên tai, dịch bệnh,… mà phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.

– Trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền.

2.4. Thời hạn áp dụng

Theo quy định tại khoản 4 Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định: “Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.”

Thực tiễn áp dụng đã tồn tại các quan điểm khác nhau như: Quan điểm thứ nhất cho rằng, do chưa có hướng dẫn cụ thể của TANDTC về thời hạn áp dụng và chưa có biểu mẫu lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, nên tạm thời chưa áp dụng mà chờ khi có hướng dẫn mới áp dụng. Quan điểm thứ hai cho rằng, thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng một lần cho đến khi kết thúc phiên tòa, tức là thời hạn được nối tiếp theo lệnh của Viện kiểm sát cho đến khi kết thúc phiên tòa.

Chúng tôi cho rằng, thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú mặc dù chưa có văn bản hướng dẫn nghiệp vụ hay văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành, nhưng chúng ta có thể tham khảo và thực hiện tương tự như trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam. Bởi vì, biện pháp tạm giam và biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đều là biện pháp ngăn chặn, hạn chế quyền con người, quyền công dân. Cụ thể đối với biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú là hạn chế quyền đi lại, cư trú của công dân. Và việc các nhà làm luật bổ sung thời hạn đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú vào Điều 123 BLTTHS năm 2015 cũng nhằm mục đích bảo đảm mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải bị ràng buộc bởi thời hạn. Theo đó, thời hạn ở đây không phải là thời hạn chung chung mà là thời hạn không quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của BLTTHS, không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm bị án đi chấp hành án phạt tù theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất, kiến nghị TANDTC cần có văn bản hướng dẫn về thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú trong từng giai đoạn xét xử tương tự như biện pháp ngăn chặn tạm giam, theo hướng cụ thể như sau:

* Giai đoạn xét xử sơ thẩm:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 277 (thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm) [11] và tham khảo các quy định tại khoản 3 Điều 278 (áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế), khoản 1, 3 Điều 329 (bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án) của BLTTHS năm 2015, thời hạn ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trong giai đoạn xét xử sơ thẩm được chia ra thành các trường hợp như sau:

– Trường hợp thứ nhất: Từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án đến trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú cụ thể như sau:

+ Một là, trong trường hợp chưa có gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử: (i) 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng; (ii) 45 ngày đối với tội nghiêm trọng; (iii) 60 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; (iv) 90 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.

+ Hai là, trong trường hợp phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử: (i) 45 ngày đối với tội ít nghiêm trọng; (ii) 60 ngày đối với tội nghiêm trọng; (iii) 90 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; (iv) 120 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.

Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác nhau (tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng), thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can bị áp dụng không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tội phạm nặng nhất mà bị can bị truy tố (tức là thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trong trường hợp này được tính theo thời hạn chuẩn bị xét xử đối với bị can đầu vụ để đảm bảo thời hạn xét xử vụ án).

– Trường hợp thứ hai: Đối với bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục cấm đi khỏi nơi cư trú để hoàn thành việc xét xử thì HĐXX ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến khi kết thúc phiên tòa.

– Trường hợp thứ ba: Trong trường hợp bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú mà bị xử phạt tù nhưng xét thấy cần tiếp tục cấm đi khỏi nơi cư trú để bảo đảm thi hành án thì HĐXX ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú 45 ngày kể từ ngày tuyên án, trừ trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

* Giai đoạn xét xử phúc thẩm:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 346 (thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm) [12] và tham khảo các quy định tại đoạn 2, 3 khoản 2 và khoản 3 Điều 347 (áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế) của BLTTHS năm 2015, thời hạn ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trong giai đoạn xét xử phúc thẩm được chia ra thành các trường hợp như sau:

– Trường hợp thứ nhất: Từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án đến trước ngày mở phiên tòa phúc thẩm, thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú cụ thể như sau: (i) 60 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu; (ii) 90 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương.
Trường hợp bị cáo còn thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú mà xét thấy cần phải tiếp tục cấm bị cáo đi khỏi nơi cư trú thì Tòa án cấp phúc thẩm sử dụng thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án cấp sơ thẩm. Trường hợp đã hết thời hạn cấm bị cáo đi khỏi nơi cư trú theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án cấp sơ thẩm thì Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú mới.

– Trường hợp thứ hai: Đối với bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, nếu xét thấy cần tiếp tục cấm đi khỏi nơi cư trú để hoàn thành việc xét xử thì HĐXX ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến khi kết thúc phiên tòa.

– Trường hợp thứ ba: Đối với bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đã hết thì HĐXX ra lệnh cấm bị cáo đi khỏi nơi cư trú để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

Tuy nhiên, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù, thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo tại phiên tòa nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội hoặc có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án theo quy định tại các điều 278, 329, 347 của BLTTHS năm 2015.

Với những nội dung đề xuất nêu trên, nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước” [13] và “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [14]. Đồng thời, phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 123 BLTTHS năm 2015: Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử và không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

3. Kiến nghị

Qua phân tích quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng cho thấy một số quy định vẫn còn chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình áp dụng tại giai đoạn xét xử. Chính vì vậy, trong thời gian tới TANDTC cần có văn bản hướng dẫn chi tiết quy định về biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú: Thời hạn áp dụng, biểu mẫu (Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; Thông báo về việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Giấy phép tạm thời rời khỏi nơi cư trú; Quyết định hủy bỏ biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú). Trước hết, có thể bằng hình thức công văn giải đáp trực tuyến để kịp thời cho các Tòa án địa phương trên cả nước áp dụng một cách thống nhất. Đồng thời, để đảm bảo tính pháp lý trong thời gian tới Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần sớm ban hành nghị quyết hướng dẫn thi hành./.

1.Điều 77 Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc.
2.Điều 72 – 75 và 76 Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc.
3.Điều 103 và khoản 9 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga.
4.Nguyễn Ngọc Chí (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 284.
5.Phạm Thành Trung (2018), Cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/cam-di-khoi-noi-cu-tru-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-to-tung-hinh-su-2015 đăng ngày 06/02/2018 [Truy cập ngày 25/11/2019]
6.Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.”
7. Tiểu mục 4, mục I Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ.
8.Tại đoạn 2 khoản 2 Điều 276 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng thì Tòa án phải thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án.”
Điều 340 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “1. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có), Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. 2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, phiên họp.”
9.Điểm a khoản 2 Điều 45; điểm b khoản 1 Điều 279; khoản 1 Điều 347 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
10.Tham khảo thêm biểu mẫu ở giai đoạn điều tra: Mẫu số 22 – 24/CQĐT (tiểu mục 2.1 Mục 2 biểu mẫu sử dụng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế) ban hành kèm theo Thông tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự.
Tham khảo thêm biểu mẫu ở giai đoạn truy tố: Mẫu số 51 – 53/HS ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố.
11. Khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “1. Trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định:
….. Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.”
12.Khoản 1 Điều 346 BLTTHS năm 2015: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.”
13. Điều 23 Hiến pháp năm 2013.
14.Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.

Ths PHAN THÀNH NHÂN ( TAND tỉnh Đồng Tháp) - Ths ĐỖ THỊ NHUNG ( TAND Thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương)