Hội nhập và Đổi mới sáng tạo: Thay đổi từ lượng sang chất

Là một nền kinh tế rất mở và càng ngày độ mở càng rộng hơn, Việt Nam đang chịu những tác động ngày càng sâu đậm và rõ ràng hơn của thị trường bên ngoài cũng như sự trỗi dậy của các đối thủ cạnh tranh cả cũ lẫn mới.

Trong khi đó, môi trường thế giới chưa bao giờ thay đổi mạnh mẽ với tốc độ nhanh chóng như thời gian vừa qua, đặc biệt chứng kiến những biến chuyển bất ngờ gần như không ai có thể tiên đoán được như cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung từ tháng 3/2018. Cuộc chiến đó ban đầu chỉ biểu hiện ở khía cạnh thương mại, nhưng càng ngày càng bộc lộ rõ là một cuộc cạnh tranh chiến lược tổng thể giữa hai cường quốc để xác lập lại vị thế thống lĩnh toàn cầu của mình. Từ đấy, dòng chảy của thế giới hay cách thức quan hệ giữa các quốc gia đã nhanh chóng biến đổi theo hướng càng ngày càng trở nên phức tạp và đa chiều hơn. Người ta không chỉ quan tâm chủ yếu đến quan hệ thương mại giữa các nước hay các dòng vốn đầu tư mà còn bắt đầu xét nét đến các dòng chuyển giao công nghệ, sự cố gắng chiếm đoạt tài sản của nhau, chiến lược tạo thêm ảnh hưởng của nước mình lên trên nước khác….

Trong sự hội nhập đó, Việt Nam cũng đã dần thay đổi cách thức tiếp cận các vấn đề của mình. Trước đây, chúng ta nhấn mạnh và tập trung cao về khía cạnh hội nhập “kinh tế quốc tế”, nhưng càng ngày chúng ta càng thấm rõ hơn rằng phạm trù “kinh tế” này rộng mở hơn nhiều so với nghĩa hẹp của những thứ thương mại hàng hóa dịch vụ, xuất khẩu lao động hay đầu tư tiền của giữa các nước.Đằng sau đó là rất nhiều nhân tốvà những tác động của chúng giờ đây có thể đến từ nhiều hướng.

Những nỗ lực đáng ghi nhận của hội nhập

Nếu nhìn vào kết quả của hội nhập bằng các con số như tăng trưởng xuất nhập khẩu, GPD hay FDI thì có thể nói năm 2018 là một năm thành công của Việt Nam. Xuất khẩu và xuất siêu đạt mức kỷ lục (thặng dư 7,2 tỷ USD), đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục tăng cao (hơn 30.8 tỷ USD đăng ký trong 11 tháng đầu năm, giải ngân đạt khoảng 53.6%) trong khi dòng đầu tư nói chung trên thế giới – ở một chừng mực nào đó – đang dịch chuyển sang các nước phát triển hơnvà có sụt giảm nhất định ở một số nước đang phát triển khác. Tăng trưởng GPD năm 2018 theo công bố là 7.08%, mức tăng cao nhất trong vòng 8 năm qua và cũng vượt kỳ vọng ban đầu 6.7% của quốc hội.Tất cả những con số này cho thấy những bước tiến của Việt Nam trong năm qua. Tuy nhiên cần lưu ý sự phát triển của Việt Nam hiện đang dựa rất nhiều vào hội nhập và các nguồn lực nước ngoài, ví dụ FDI chiếm tới 50% sản lượng công nghiệp và 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đầu tư nước ngoài đóng góp gần 20% tỷ trọng GDP và chiếm khoảng hơn 23% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong khi vực FDI hầu hết sử dụng lao động giá rẻ và không có nhiều chuyển giao công nghệ.

 

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Việt Nam đang chuẩn bị bước sang giai đoạn hội nhập mới – thời kỳ nâng cao giá trị nội tại và đáp ứng những chuẩn mực cao của quốc tế. Điều này biểu hiện bằng việc Quốc hội thông qua Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP (tháng 10/2018) và Chính phủ vẫn đang dốc sức đàm phán và thúc đẩy Liên minh châu Âu sớm hoàn tất Hiệp định thương mại tự do EVFTA trong năm 2019. Khác với các FTA trước, hai hiệp định thế hệ mới này đặt ra những đòi hỏi cao hơn về mọi mặt, đặc biệt là yêu cầu về cải cách thể chế. Việc quyết tâm thúc đẩy và thực hiện CPTPP và EVFTA là tín hiệu cho thấy Việt Nam đang thực sự thay đổi từ lượng sang chất.

Trong năm 2018, Việt Nam đã ít nhiều tận dụng được một vài cơ hội do sự xung đột thương mại Mỹ-Trung mang lại. Khi Mỹ đánh thuế cao một số mặt hàng của Trung Quốc như đồ gỗ thì Việt Nam cũng đã tranh thủ bật lên để tăng cường xuất khẩu gỗ sang Mỹ; hoặc một số mặt hàng như thủy sản (tôm, cá…)đã có xu hướng phục hồi tốt hơn. Minh Phú, bà Khanh, Tỉnh Hoàn… một loạt công ty đều đi theo hướng đi vào công nghệ và làm sản phẩm sạch, chuyển hẳn sang cách nuôi tôm khác theo những yêu cầu về sinh thái, hữu cơ. Rau quả cũng vậy, năm nay sở dĩ Việt Nam xuất khẩu rau quả vượt trội lên, đáp ứng được một loạt yêu cầu của các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật, Úc, Châu Âu… là nhờ ứng dụng công nghệ để kiểm soát được toàn bộ quy trình sản xuất cho đến lúc xuất khẩu. Không chỉ dựa vào những thời cơ nhất thời, Việt Nam đã có những cố gắng rất lớn để cải thiện năng lực vị thế bằng cách từ bỏ dần cách cạnh tranh chỉ bằng giá thấp, thay vào đó cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm và quy trình sản xuất kinh doanh tốt hơn để đưa lại giá cả cao hơn trong xuất khẩu.

Có lẽ trong những thành tựu xuất khẩu của năm 2018 thì gạo là mặt hàng đặc biệt gây chú ý.Lần đầu tiên bình quân giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cao hơn so với một số đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan (công bố của bộ NN&PTNT vào tháng 3/2018).Trước đây, Việt Nam thường thua kém Thái Lan về cả chất lượng và giá cả, nhưng bước vượt lên này chứng tỏ cố gắng rất lớn của việc tái cơ cấu ngành hàng gạo. Một số vùng trồng lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long đã tập trung sản xuất những giống gạo không phải lấy sản lượng cao mà là chất lượng tốt để xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU hay Mỹ, thay vì ham những thị trường giá rẻ nhưng dễ vào như trước. Tháng 5/2018, gạo Việt Nam chính thức có tên trên bản đồ nông sản khi Bộ NN-PTNT ban hành quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận quốc gia Gạo Việt Nam/Vietnam Rice nhằm quảng bá sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh cho hạt gạo. Tháng 10/2018, Chính phủ sửa đổi Nghị định 109 cũ để ‘cởi trói’ cho xuất khẩu gạo bằng việc xóa bỏ các quy chế bắt buộc về kho chứa tối thiểu 5,000 tấn và cơ sở xay xát công suất tối thiểu 10 tấn/giờ, cũng như đơn giản hóa thủ tục hải quan cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo.

Mặc dù nhiều chuyên gia vẫn trăn trở rằng năm 2018, Việt Nam tăng trưởng cao nhưng chưa thấy những động lực mới xuất hiện, nhưng những tín hiệu manh nha trong một vài nhóm hàng như trên đã cho thấy một sự khởi động thay đổi theo chiều hướng tốt. Chính những điều đó có thể tạo nền tảng để sau này trở thành những động lực thực sự cho tăng trưởng của Việt Nam.

Đổi mới sáng tạo từ phía Chính phủ

Từ năm 2016 đến nay, lãnh đạo Đảng và Nhà nước liên tục thúc đẩy và có nhiều hoạt động nhằm đưa nền kinh tế chuyển sang phát triển theo hướng đổi mới sáng tạo (ĐMST), nhất là thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện các hoạt động ĐMST. Năm 2018 ghi nhận Việt Nam có nhiều hoạt động quốc tế và hội nghị lớn trong nước, đình đám nhất liên quan đến công nghệ và đưa ra những thông điệp mạnh mẽ về khoa học công nghệ và ĐMST.

Tuy nhiên, để có một nền kinh tế ĐMST, đầu tiên chính phủ phải là người tiên phong. Bên cạnh những chủ trương chính sách đưa ra ngày càng rõ ràng hơn, thì chính phủ điện tử (CPĐT) dường như là dấu ấn ĐMST trong lĩnh vực công tốt nhất của Việt Nam năm nay. Tháng 8/2018, Ủy ban quốc gia về CPĐT được thành lập do đích thân Thủ tướng làm chủ tịch và đang ráo riết kết nối, tinh chỉnh các hoạt động dịch vụ công trực tuyến; hạ tầng viễn thông và nguồn nhân lực. CPĐT đã bắt đầu lôi kéo được sự tham gia của doanh nghiệp một cách tốt hơn. Đây là tín hiệu tốt, vì nếu ở tầm doanh nghiệp áp dụng ĐMST mà bản thân hệ thống chính phủ không đổi mới kịp thời, ít nhất không đưa được vào hoàn chỉnh hệ thống CPĐT và hệ thống cơ chế một cửa quốc gia thì Việt Nam sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội phát triển.

Tuy vậy, số lượng các bộ ban ngành được kết nối cũng như các thủ tục hành chính được triển khai trên các hệ thống điện tử chỉ ở mức khoảng trên dưới 50% so với mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2016 – 2020. Gần 5 năm kể từ khi Nghị quyết 19 và hơn 2 năm kể từ khi Nghị quyết 35 đầu tiên được ban hành, chính phủ đã cố gắng cải thiện môi trường kinh doanh (MTKD) và đã có những chuyển biến rõ nét. Tuy nhiên, theo đánh giá thì tốc độ cải thiện vẫn chưa tốt mà một trong những nguyên nhân chính là do nhiều cơ quan nhà nước ở các cấp khác nhau vẫn chưa coi việc cải thiện MTKD là vấn đề trực tiếp liên quan đến cải cách hành chính, dẫn đến tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Nếu Việt Nam thiết lập được những hệ thống kết nối minh bạch như CPĐT thì các mục tiêu như cắt bỏ 50% điều kiện kinh doanh sẽ hoàn toànthực hiện được đúng tiến độ.Có thể nói, việc hội nhập thúc đẩy ĐMST không chỉ thuần túy dưới góc độ kinh tế bởi đổi mới bộ máy nhà nước là vấn đề của cả một hệ thống chính trị, là những cam kết chính trị của nhà nước với toàn bộ công dân của mình. Nếu chúng ta thực hiện tốt chỉ riêng điều này thôi cũng đã giúp cho Việt Nam thay đổi rất nhiều cả về khía cạnh chống tham nhũng, tăng cường năng lực quản trị của nhà nước, tăng năng lực của cán bộ công chức trong công việc và cải thiện được quan hệ của nhà nước với doanh nghiệp và người dân.

Những phép thử cho phía doanh nghiệp

Hội nhập là một trong những nhân tố thúc đẩy ĐMST trong nước, đồng thời cũng mở ra cánh cửa để Việt Nam đo lường được rõ ràng hơn vị trí của mình trên thế giới cũng như sự biến đổi của mình trong dòng chảy quốc tế. Có những thứ thay đổi theo hướng tích cực hơn, như năm 2018 Việt Nam có 7 sản phẩm đứng vào Top 5 thế giới đều từ nông-lâm nghiệp, chứng minh phần nào được rằng nông nghiệp vẫn là một ngành thế mạnh, và từ đấy có thể tập trung tiếp tục đầu tư vào nông nghiệp bằng những ứng dụng ĐMST để ngành này bật lên mạnh mẽ hơn nữa. Mục tiêu của Thủ tướng Chính phủ nêu ra Việt Nam phấn đấu trong 10 năm nữa trở thành một trong số 10-15 nền nông nghiệp phát triển thế giới sẽ có thể đạt được. Tuy nhiên, có những ngành khi hội nhập sẽ thấy mình vất vả hơn và cơ hội sẽ nhỏ bé hơn trước, ví dụ như dệt may. Bây giờ chúng ta vẫn thấy còn cơ hội cho ngành may, nhưng nếu còn kéo dài kiểu may gia công như hiện nay thì có lẽ tương lai ngành này sẽ không còn nữa.

Lúa gạo và may mặc là hai ví dụ vô cùng đặc trưng cho những kiểu mẫu tác động, rủi ro tiềm tàng và cách thức phản ứng giữa hội nhập và ĐMST. Các ngành khác hoàn toàn có thể học được những bài học kinh nghiệm từ đây.

Ngành gạo đã phải thay đổi bởi nó đã từng chạm đến điểm nghẽn mà nếu không thay da đổi thị thì sẽ không thể phát triển được nữa. Bao nhiêu năm, lúa gạo bị chi phối bởi yêu cầu về số lượng – chính sách duy trì3,8 triệu ha đất trồng lúa, bảo đảm an ninh lương thực, trồng 2-3 vụ lúa một năm lấy năng xuất cao và sản lượng nhiều, và vui mừng với thành tích xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới về lượng.

Nhưng khi những thị trường truyền thống như Philipine hay châu Phi không thể tiếp tục được do Ấn Độ nổi lên cạnh tranh bằng giá cả rẻ hơn đáng kể, hoặc khi Trung Quốc thắt chặt nhập khẩu gạo và tăng thuế, khiến ngành gạo Việt Nam trở nên lao đao. Trong khi đó, các thị trường lớn đòi hỏi chất lượng cao hơn vẫn đang rộng mở. Việt Nam nhìn thấy nước láng giềng Campuchia khi quay lại xuất khẩu gạo đã tiến thẳng sang châu Âu chứ không tới các nước nghèo khó khác, do vậy họ thu được chất lượng và giá cả cao hơn hẳn Việt Nam.

Kể cả tại thị trường trong nước,khi người tiêu dùng ở các tỉnh Cần Thơ, Tiền Giang, Long An… quay lưng lại ăn gạo Sóc Miên, Sa Mơ của Campuchia chứ không mua gạo Việt nữa, thì người làm gạo nhận ra rằng ngay cả nuôi cho gần 100 triệu đồng bào của mình cũng phải nuôi dưỡng cho tử tế, sạch sẽ chứ không thể dùng phân bón hóa chất độc hại được. Chính những cú hích đó khiến cho người làm gạo ở Việt Nam thức tỉnh. Từ đó người ta bắt đầu thay đổi và tự tìm đến các nhà công nghệ để hợp tác tìm giải pháp làm chất lượng cao hơn. Có thể nói, chính khả năng của thị trường điều tiết trước tiên dẫn đến sự thay đổi ngành chứ chưa cần có bàn tay can thiệp của nhà nước. Nó cũng trùng hợp với thời kỳ nhà nước bắt đầu thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp nên được tiếp thêm lực đẩy bổ xung, nhưng phải khẳng định các nỗ lực trước hết là tự bản thân người lao động.

Tuy nhiên, bối cảnh ngành may mặc lại khác. Bên cạnh những cơ hội về mở rộng thị trường, việc hội nhập đang tạo ra những rủi ro tiềm tảng rất lớn. Năm 2018, dệt may là nhóm hàng xuất khẩu lớn thứ 2 với trị giá ước đạt  30,45 tỷ USD, tăng 16,6% so với năm trước, trong đó Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành hàng này, chiếm tỷ trọng 45%, theo sau là EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… Mặc dù trong cuộc chiến thương mại, tổng thống Trump chưa đánh tiếp tới Việt Nam về việc xuất siêu hay chưa chạm đến nhân tố trong sản phẩm may mặc của Việt Nam thì 48% nguyên phụ liệu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc, nhưng nếu căng thẳng hai nước tiếp tục đẩy lên cao hơn thì phần đầu vào từ Trung Quốc trong mặt hàng xuất khẩu của Việt nam sẽ phải chịu thuế rất cao. Như vậy, sản phẩm may của nước ta với giá trị gia công nhỏ bé liệu còn có thể cạnh tranh?

Tương tự, nếu nhìn vào hiệp định CPTPP đang có hiệu lực, chúng ta sẽ thấy rõ nếu ngành may mặc không thay đổi cách thức sản xuất theo hướng tạo được giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi thì việc năm bắt cơ hội cũng khó lòng hiệu quả. Trong giai đoạn hiệp định TPP khi nước Mỹ còn ở lại bàn đàm phán thì quy chế xuất xứ “Yarn Forward – Từ sợi trở đi” sẽ phải được áp dụng rất gắt gao cho hàng dệt may, có nghĩa là từ sợi vải trở đi phải làm ở Việt Nam mới được tính.Các đối tác không chấp nhận việc Trung Quốc xuất khẩu sợi sang Việt Nam để được hưởng thuế thấp trong khi nước này không phải có bất kỳ một nghĩa vụ nào đối với các thành viên còn lại mà Việt Nam lại là bên có nghĩa vụ thực hiện mọi cam kết yêu cầu.

Nếu Việt Nam tiếp tục duy trì và chấp nhận sự bất lợi của việc “xuất khẩu hộ – hộ cho nhà đầu tư nước ngoài, hộ cho bên cung cấp đầu vào như Trung Quốc, Hàn Quốc hay ASEAN – thì dù trong bối cảnh CPTPP linh hoạt hơn TPP một chút nhưng những tiêu chuẩn nguồn gốc xuất xứ đặt ra vẫn đang vô cùng cao so với hoạt động từ trước đến giờ, thì chẳng mấy chốc chúng ta sẽ tự loại bỏ mình.Trong thế giới hội nhập mới này, khái niệm về chuỗi giá trị càng ngày càng tách bạch rõ ràng – chúng ta chỉ có thể được hưởng phần giá trị do chính mình tạo ra trong chuỗi.

Nếu như ngành gạo đã thức tỉnh và chuyển dịch cơ cấu, thì ngành dệt may vẫn còn đang khá ngập ngừng trong việc ĐMST bởi họ vẫn xuất khẩu được với thành tích tốt, cạnh tranh được bằng giá rẻ, vẫn có thời gian tranh thủ khi sức ép hội nhập bị trì hoãn và vẫn tăng trưởng từ phần nguồn lực đầu tư nước ngoài. Nếu Việt Nam có thể thức tỉnh trước để có sự chuẩn bị chủ động thị trường đối với mọi ngành hàng, thì có lẽ giá trị và vị thế của Việt Nam trong chuỗi sẽ càng ngày càng nâng cao.

 

THỂ CHẾ & MINH BẠCH

Khi nói đến hệ thống ĐMST quốc gia, các nhà nghiên cứu khoa học và hoạch định chính sách thường đề cập đến “văn hóa và giáo dục” là yếu tố căn bản, thế nhưng từ phía công chúng lại nói nhiều hơn đến “thể chể và minh bạch”. Nói cho cùng, cả hai yếu tố này đều quan trọng và đều liên quan cũng như bổ trợ cho nhau. Nhưng tại sao có sự khác biệt trong kỳ vọng như thế? Bởi lẽ sự xuống cấp của văn hóa và giáo dục ở Việt Nam hiện nay là do thể chế. Người ta thường nói “Thể chế nào thì doanh nghiệp ấy”, nếu nhìn vào tất cả các lĩnh vực thì đều có thể thấy thể chế nào thì nền giáo dục ấy, thể chế nào thì văn hóa ấy, thể chế nào thì con người ấy.

Một thể chế như thế nào sẽ khuyến khích sự ĐMST và những ý tưởng điên rồ về công nghệ để tạo thành sự đột phá? Một thể chế như thế nào sẽ khuyến khích những con người ngay ngắn, lương thiện và cần cù để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao? Vì sao trong hơn 2 năm qua, có không ít các startup Việt chuyển sang Singapore để khởi nghiệp? Những câu hỏi đó thực sự rất đáng quan tâm. Nếu nói về hai cách tiếp cận,có thể nhìn rất rõ rằng nếu không có một hệ thống nghiêm minh và minh bạch từ nhà nước thì Việt Nam sẽ rất khó có thể phát triển, hội nhập và ĐMST tốt hơn được.

Theo tiasang.com.vn

PHẠM CHI LAN