Nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự

Bài viết lần lượt trình bày quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự; ý nghĩa của việc công khai chứng cứ của đương sự; những hạn chế của việc thực hiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự và nêu lên một số kiến nghị hoàn thiện.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) bổ sung nhiều quy định để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, trong đó có quy định về nghĩa vụ của đương sự phải sao gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác khi giao nộp đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ cho Tòa án (sau đây được gọi chung là nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự). Đây là quy định tiến bộ nhưng việc áp dụng trên thực tế còn hạn chế, chưa phát huy giá trị trong quá trình giải quyết các vụ án của Tòa án, chưa đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Cho nên, cần xác định nguyên nhân và đề xuất kiến nghị để phát huy giá trị của quy định này trong thực tiễn. Với lý do đó, trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự; ý nghĩa của việc công khai chứng cứ của đương sự; những hạn chế của việc thực hiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự và nêu lên một số kiến nghị hoàn thiện.

1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự

Khác với quy định về giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự vừa là quyền vừa là nghĩa vụ, BLTTDS quy định dứt khoát việc công khai chứng cứ của đương sự chỉ là nghĩa vụ. Theo khoản 2 Điều 24 BLTTDS, một trong những hoạt động bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp. Bên cạnh đó, BLTTDS còn quy định việc công khai chứng cứ của đương sự là một trong các nghĩa vụ chung của đương sự. Theo khoản 9 Điều 70 BLTTDS, khi tham gia tố tụng, đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có, tài liệu, chứng cứ không được công khai, được quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS[1].

Từ các quy định chung, BLTTDS quy định cụ thể nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự trong một vài chế định khác và trong suốt quá trình giải quyết vụ án từ khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện đến Tòa án. Theo đó, khi nộp đơn khởi kiện, người khởi kiện phải gửi bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác.[2]

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, khi giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì đương sự phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ không được công khai, được quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác.[3] Đồng thời, tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, khi được Thẩm phán hỏi việc công khai chứng cứ, đương sự còn phải trình bày việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác. [4]

Trong trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ. Nếu đương sự yêu cầu khi nộp đơn khởi kiện thì Tòa án gửi bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, kèm theo thông báo về việc thụ lý vụ án.[5]

Bên cạnh đó, theo mục 8 Phần IV Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TANDTC về một số vấn đề nghiệp vụ (sau đây được viết tắt là Giải đáp số 01/2017), TANDTC còn hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện việc công khai chứng cứ của đương sự như sau: Nguyên đơn phải gửi bản sao đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ cho đương sự khác trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Về phương thức sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác, đương sự có quyền lựa chọn phương thức sao gửi (như: gửi trực tiếp, gửi qua đường bưu điện...) và đương sự phải chứng minh với Tòa án đã sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác. Về trách nhiệm của Tòa án, trong quá trình tố tụng, Tòa án phải giải thích, hướng dẫn cho đương sự để họ thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác. Trường hợp đương sự không thực hiện việc sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác thì Tòa án yêu cầu đương sự phải thực hiện.

Đối với trường hợp hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, theo Điều 202 BLTTDS, thủ tục yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của BLTTDS về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Cho nên, nghĩa vụ sao gửi đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập và tài liệu, chứng cứ kèm theo của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện như quy định áp dụng đối với người khởi kiện.

Như vậy, quy định của pháp luật tố tụng dân sự tương đối cụ thể về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự (như cách thức thực hiện, trách nhiệm của Tòa án giải thích, hỗ trợ khi đương sự không thực hiện được và có yêu cầu…). Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định về cách thức Tòa án hỗ trợ, nghĩa vụ phải chịu chi phí phát sinh khi Tòa án hỗ trợ đương sự công khai chứng cứ; chế tài mà đương sự phải gánh chịu trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ; chế tài đối với Tòa án trong trường hợp không giải thích, hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ công khai      chứng cứ.

2. Ý nghĩa của việc công khai tài liệu, chứng cứ

Nếu quy định việc giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự nhằm giúp Tòa án biết được tài liệu, chứng cứ mà các đương sự đang có để có kế hoạch thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết yêu cầu của đương sự thì quy định nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự giúp đương sự khác trong vụ án biết được các tài liệu, chứng cứ mà các đương sự đang có. Việc quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự trong tố tụng dân sự có một số ý nghĩa như sau:

Một là, giúp đương sự khác thực hiện quyền biết ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ trong vụ án. Theo các khoản 7, 8 Điều 70 BLTTDS, đương sự có quyền đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS. Cho nên, với quy định nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự sẽ giúp đương sự khác thực hiện quyền ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ trong vụ án.

Hai là, giúp các đương sự lựa chọn cách thức xử sự hợp lý đối với vấn đề mâu thuẫn, chủ động thỏa thuận với nhau để tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Trên cơ sở tài liệu, chứng cứ do đương sự công khai, các bên đương sự hiểu được bản chất sự việc, chủ động trao đổi chứng cứ, xác định rõ vấn đề chưa hiểu giảm bớt sự bất ngờ, xác định vấn đề còn mâu thuẫn, tiếp tục tranh chấp, dự kiến đề xuất về chứng cứ, tính tiết pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Qua đó, các đương sự có thể cân nhắc thiệt hơn để tự thỏa thuận hoặc tham gia tích cực vào phiên hòa giải do Tòa án tiến hành để sớm kết thúc vụ án (có thể trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa).

Ba là, giúp thực hiện tốt việc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Theo đó, để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự, bên cạnh việc quy định trách nhiệm của Tòa án bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng; quy định quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự; quy định trách nhiệm xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi tài liệu, chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, BLTTDS còn quy định đương sự có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp và việc công khai chứng cứ của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.[6] Mặc dù, đương sự có thể tiếp cận được tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp thông qua phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tuy nhiên, sau thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ sẽ kết thúc một số quyền của đương sự, trong đó, có quyền yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, bổ sung yêu cầu khởi kiện khác với yêu cầu khởi kiện ban đầu. Cho nên, nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự sẽ giúp đương sự khác chủ động trong việc chuẩn bị lập luận, tài liệu, chứng cứ để trình bày trong các hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành, quyết định trong việc đưa ra yêu cầu khởi kiện bổ sung, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Từ đó, chất lượng tranh tụng sẽ nâng lên.

Như vậy, quy định nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự có nhiều ý nghĩa nên việc bổ sung quy định này vào BLTTDS là cần thiết, thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp của nhà làm luật Việt Nam. Qua đó, cũng loại bỏ quan điểm cho rằng cần loại bỏ quy định nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự khỏi BLTTDS do sự tùy nghi quá lớn.[7] Tuy nhiên, do quy định chưa cụ thể nên việc thực hiện quy định này trên thực tế chưa đáp ứng kỳ vọng của nhà làm luật.

3. Những hạn chế trong thực hiện quy định về nghĩa vụ công khai chứng cứ

Hiện nay, chưa có thống kê của cơ quan có thẩm quyền về những vụ án mà đương sự không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ công khai chứng cứ trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự thể hiện, khi khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự chưa thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ khi nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Bên cạnh đó, việc giải thích, hỗ trợ của Tòa án cũng không được chú trọng. Có nơi, Tòa án chỉ giải thích để đương sự thực hiện mà không kiểm tra đánh giá việc đương sự có thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ hay không. Ở nơi khác, Tòa án linh hoạt bằng cách tạm tính chi phí photo đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ, chi phí gửi tài liệu, chứng cứ đến đương sự khác trong trường hợp đương sự có yêu cầu hỗ trợ nhưng rất hiếm trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án hỗ trợ. Nhìn chung, việc thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự trong thực tiễn còn nhiều hạn chế.

Về nguyên nhân của hạn chế, bên cạnh các lý do đương sự không hiểu biết về quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ công khai chứng cứ nên không thực hiện; sự mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa các đương sự nên khi khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, cung cấp chứng cứ, đương sự này rất khó công khai chứng cứ với đương sự khác; Tòa án chưa quan tâm đúng mức đến việc thực hiện trách nhiệm hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh, hạn chế của việc thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự trong thực tiễn còn xuất phát từ quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự chưa cụ thể nên gây khó khăn cho việc áp dụng. Cụ thể như sau:

Một là, quy định chưa cụ thể, hợp lý về thời gian mà đương sự phải thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ. Khoản 5 Điều 96 BLTTDS quy định, khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác, trừ tài liệu, chứng cứ không được công bố mà không quy định thời hạn đương sự phải thực hiện. Giải đáp số 01/2017 hướng dẫn, thời gian thực hiện trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Do thời gian thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ quá dài nên có trường hợp đương sự sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác rất trễ, sát ngày mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Thẩm chí, có trường hợp đương sự giao nộp tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tại phiên tòa. Điều này làm cho các quy định về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự trở nên không có ý nghĩa, dẫn đến tình trạng thiếu công bằng, khách quan trong việc công khai chứng cứ.[8]

Hai là, thiếu cơ chế để đương sự thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ và Tòa án hỗ trợ đương sự thực hiện. Theo đó, pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định trình tự, thủ tục để đương sự thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ. Đồng thời, pháp luật tố tụng dân sự cũng chưa quy định cụ thể các thức để Tòa án hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ khi có yêu cầu như: hình thức yêu cầu hỗ trợ, nghĩa vụ chịu chi phí phát sinh khi Tòa án thực hiện việc hỗ trợ (mức phí photo tài liệu; chi phí gửi qua đường bưu chính, gửi trực tiếp…).

Ba là, quy định của pháp luật tố tụng dân sự về công khai chứng cứ của đương sự mang tính tùy nghi quá lớn và không có chế tài đối với đương sự vi phạm nghĩa vụ và Tòa án vi phạm trách nhiệm giải thích, hỗ trợ. Thực tế thể hiện, khi khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, đương sự không thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ nhưng không phải chịu bất kỳ hậu quả pháp lý nào.[9] Về phía Tòa án, việc có thực hiện trách nhiệm giải thích, hỗ trợ đương sự thực hiện việc công khai chứng cứ hay không cũng không được phản ánh trong hồ sơ vụ án, không có sự kiểm tra và không có chế tài khi vi phạm. Đồng thời, vụ án mà Tòa án không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ thì kết giải quyết (bản án, quyết định) có bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng để hủy, sửa án hay không cũng chưa có quy định. Vì lẽ đó, trên thực tế, do cho rằng việc vi phạm nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự có thể được khắc phục bằng các thủ tục khác (như thông qua phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tại phiên tòa…). Do đó, mặc dù, BLTTDS quy định công khai chứng cứ của đương sự là nghĩa vụ bắt buộc, phải thực hiện nhưng do không có hậu quả pháp lý bất lợi (đối với đương sự) hoặc trách nhiệm pháp lý phát sinh (đối với Tòa án đang giải quyết vụ án có liên quan) nên quy này chưa phát huy giá trị trên thực tế.

4. Một số kiến nghị hoàn thiện

Để khắc phục nguyên nhân của hạn chế, phát huy giá trị của quy định về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự trong thời gian tới, bên cạnh tăng cường công tác tuyên truyền các quy định về nghĩa vụ sao gửi đơn, tài liệu, chứng cứ cho người dân, nhất là những người có tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự đang được TAND có thẩm quyền giải quyết, tác giả kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về một số vấn đề sau:

Một là, kiến nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn cơ chế để đương sự thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ và Tòa án hỗ trợ đương sự thực hiện việc công khai chứng cứ. Cụ thể như sau:

- Đối với nghĩa vụ công khai chứng cứ khi nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập (sau đây được gọi chung là đơn yêu cầu), khi nộp đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, đương sự phải nộp kèm theo văn bản thể hiện việc đã sao gửi đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự khác, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có hoặc tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS.

Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao gửi thì có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ bằng văn bản. Khi nhận được yêu cầu hỗ trợ của đương sự, Tòa án tạm tính chi phí sao chụp, chi phí tống đạt (trực tiếp hoặc qua đường bưu chính) và yêu cầu đương sự nhờ hỗ trợ nộp tạm ứng. Sau khi đương sự nhờ hỗ trợ nộp tạm ứng chi phí, Tòa án thực hiện việc sao gửi đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cùng với việc tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập theo quy định tại khoản 3 Điều 196 BLTTDS.

- Đối với nghĩa vụ công khai chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án, khi giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì đương sự phải nộp kèm theo văn bản thể hiện việc đã sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải gửi văn bản thể hiện việc đã thông báo cho đương sự   khác biết.

Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao gửi thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ bằng văn bản. Khi nhận được yêu cầu hỗ trợ của đương sự, Tòa án tạm tính chi phí sao chụp và chi phí tống đạt (trực tiếp hoặc qua đường bưu chính) và yêu cầu đương sự tạm ứng. Sau khi đương sự nộp tạm ứng chi phí thì Tòa án thực hiện việc sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác.

- Về nghĩa vụ chịu chi phí sao gửi đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ được thực hiện như sau:

+ Trường hợp đương sự đề nghị hỗ trợ là người khởi kiện, người có yêu cầu phản tố, người có yêu cầu độc lập: Đương sự phải chịu chi phí sao gửi đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ nếu toàn bộ yêu cầu hoặc một phần yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận. Trường hợp đương sự được chấp nhận toàn bộ yêu cầu thì người bị khởi kiện, bị yêu cầu phản tố hoặc bị yêu cầu độc lập phải chịu chi phí sao gửi đơn, tài liệu, chứng cứ. Trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự thì đương sự đó phải chịu chi phí sao gửi đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ.

+ Trường hợp đương sự đề nghị hỗ trợ không phải là là người khởi kiện, người có yêu cầu phản tố, người có yêu cầu độc lập: Đương sự đề nghị Tòa àn hỗ trợ sao gửi phải chịu chi phí sao gửi.

Hai là, kiến nghị bổ sung vào Điều 96 BLTTDS khoản 6 quy định về chế tài (hậu quả pháp lý bất lợi) đối với đương sự trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ công khai chứng cứ như sau:

6. Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập khi đương sự có yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập nộp văn bản thể hiện việc sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác hoặc đã thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án hỗ trợ. Trường hợp đương sự không nộp văn bản thể hiện việc sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác và không thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án hỗ trợ thì Tòa án ban hành Thông báo yêu cầu đương sự thực hiện. Quá thời hạn được ấn định mà đương sự không thực hiện thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập và tài liệu, chứng cứ kèm theo.

Khi giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự phải nộp kèm theo văn bản thể hiện việc sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác hoặc thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án hỗ trợ. Trường hợp đương sự không nộp văn bản thể hiện việc sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác và không thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án hỗ trợ thì Tòa án ban hành Thông báo yêu cầu đương sự thực hiện trong hạn 07 ngày và phải trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Quá thời hạn được ấn định mà đương sự không thực hiện thì Tòa án không sử dụng tài liệu, chứng cứ được giao nộp để giải quyết vụ án.

Ba là, kiến nghị bổ sung vào Điều 96 BLTTDS khoản 7 quy định về trách nhiệm pháp lý phát sinh đối với Tòa án đang giải quyết vụ án có liên quan trong trường hợp không giải thích, hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu, chứng cứ như sau:

7. Khi giải thích nghĩa vụ sao gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập, tài liệu, chứng cứ cho đương sự và yêu cầu đương sự thực hiện nghĩa vụ sao gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập, tài liệu, chứng cứ phải được thể hiện bằng văn bản và lưu vào hồ sơ vụ án.

Trường hợp đương sự không sao gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập, tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác nhưng Tòa án không giải thích nghĩa vụ sao gửi, không ban hành văn bản yêu cầu đương sự thực hiện việc sao gửi thì được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Như vậy, quy định về nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự là quy định tiến bộ, có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Do nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương sự là quy định mới, chưa được quy định cụ thể nên chưa phát huy giá trị trong thực tiễn. Với các kiến nghị trong bài viết, tác giả mong muốn góp phần nhỏ hoàn thiện quy định này, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án dân sự của TAND trong thời gian tới.

 

Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, An Giang xét xử vụ án dân sự - Ảnh: Mỹ Dung


[1] Đó là các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự. 

[2] Xem: Khoản 3 Điều 196 BLTTDS.

[3] Xem: Khoản 5 Điều 96 BLTTDS.

[4] Xem: Điểm b khoản 2 Điều 210 BLTTDS.

[5] Xem: khoản 9 Điều 70, khoản 3 Điều 196 BLTTDS.

[6] Xem: Điều 24 BLTTDS.

[7] Xem: Phạm Đình Tiệm, “Nghĩa vụ sao gửi chúng cứ của đương sự và những bất cập”; tại địa chỉ: https://binhphuoc.gov.vn/vi/stp/tin-tuc-su-kien/nghia-vu-sao-gui-chung-cu-cua-duong-su-va-nhung-bat-cap-158.html; cập nhật ngày 17/5/2019.

[8] Theo đó, đương sự thực hiện nghiêm quy định về nghĩa vụ công khai chứng cứ lại lộ chứng cứ; trong khi đương sự không công khai chứng cứ thì có thể giữ bí mật, có lợi thế nhất định trong quá trình giải quyết vụ án.

[9] Xem: Nguyễn Thị Thu Hà, “Bình luận về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS”,  Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 (362), tháng 5/2018), tr.42-46.

ThS. THÁI CHÍ BÌNH (Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang)