Về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

Nhân lực tư pháp là một nội dung quan trọng bậc nhất của cải cách tư pháp (CCTP). Bằng cách tiếp cận chiến lược, bài viết này làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của quan niệm về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, góp phần làm sâu sắc, sáng tỏ hơn một số nội dung Đề án của Tòa án nhân dân tối cao và đưa ra những kiến nghị nhằm đáp ứng sự nghiệp CCTP, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

1. Vai trò và sự cần thiết của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

1.1. Vai trò của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

Trong bài viết này, dựa vào lý luận về phát triển nhân lực và quan điểm của Đảng ta về đột phá, tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực[1], chúng tôi sử dụng khái niệm “nhân lực tư pháp” để phản ánh hết thực chất của chủ đề, chứ không sử dụng khái niệm “các chức danh tư pháp” hay “cán bộ tư pháp”. Tuy vậy, tùy ngữ cảnh nội dung được trình bày, khái niệm “các chức danh tư pháp” hay “cán bộ tư pháp” vẫn được sử dụng.

Lịch sử phát triển xã hội loài người, đặc biệt là sự phát triển xã hội đương đại cho thấy, nhân tố con người là nhân tố quyết định của mọi hoạt động. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng nhân tố con người, quan tâm sâu sắc đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, trọng dụng cán bộ. Người khẳng định, “cán bộ là gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém... Công tác cán bộ là vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp”. Nhân lực tư pháp là chủ thể nòng cốt của nền tư pháp, là bộ phận cấu thành nhân lực quốc gia. Nhân lực tư pháp là một loại nhân lực pháp luật. Nhân lực tư pháp là những người thực thi quyền lực tư pháp, có nghề nghiệp đặc biệt, làm việc trong các cơ quan tư pháp, là lực lượng quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các hoạt động tư pháp. Nguồn nhân lực tư pháp là nơi bắt đầu, nguồn tạo ra hoặc nguồn cung cấp nhân lực tư pháp. Vì vậy, để có nguồn nhân lực tư pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra hiện nay, cần phải có cách tiếp cận chiến lược, phải có chiến lược phù hợp, mang tính đột phá để phát triển nguồn nhân lực tư pháp.

Đảng ta xác định tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài là một trong ba đột phá chiến lược[2] để phát triển đất nước. Phát triển nhanh, nâng cao chất lượng nhân lực chất lượng cao, là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Nhân lực tư pháp quốc gia, với tư cách một bộ phận cấu thành nhân lực quốc gia, do vậy, là một nội dung đặc biệt quan trọng của CCTP ở nước ta hiện nay. Phát triển nhân lực tư pháp là phát triển khâu đột phá của CCTP. Để phát triển khâu đột phá đó - phát triển nhân lực tư pháp quốc gia cần phải có chiến lược về nó. Chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia có vai trò đặc biệt đối với phát triển nguồn nhân lực tư pháp. Trong điều kiện hiện nay, mọi lĩnh vực muốn phát triển đúng hướng, có chất lượng, bền vững phải có chiến lược tương ứng.

Việc xác định vai trò của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, phải xuất phát từ vai trò của nhân lực tư pháp. Vai trò của nhân lực tư pháp được thể hiện tập trung nhất ở những nội dung quan trọng sau đây: nhân lực tư pháp là chủ thể thực hiện và tham gia thực hiện quyền lực tư pháp, góp phần thực hiện quyền lực nhà nước; bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; giải quyết các xung đột trong xã hội, góp phần tạo ra sự đồng thuận trong xã hội; phát triển nhân lực tư pháp là nội dung của tư pháp, của CCTP; nhân lực tư pháp là sản phẩm, kết quả của CCTP.

Cần phải có cách tiếp cận chiến lược về phát triển nhân lực tư pháp. Điều đó có nghĩa là, cần phải có chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia. Chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia đưa ra một hệ quan điểm hành động để phát triển nhân lực tư pháp quốc gia. Hệ quan điểm đó xác định mục tiêu, quan điểm, định hướng, nội dung, các giải pháp phát triển nguồn nhân lực đó với tư cách một nội dung của CCTP, nhưng đồng thời là chủ thể (và các chủ thể khác) tiến hành CCTP ở nước ta.

Nghiên cứu cho thấy, hiện nay, ở nước ta chưa có chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, mà mới chỉ có các hợp phần, các nội dung của chiến lược đó. Hơn nữa, các hợp phần, các nội dung đó được trình bày tản mạn trong các văn bản khác nhau, chưa hệ thống, lôgic, chưa bao quát hết các nội dung tất yếu phải có của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp.

Đảng ta đã đưa ra nội dung của chủ trương phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp trong Chiến lược CCTP. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49) đã chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí, có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp”[3]. Tiếp đến, Nghị quyết xác định một trong những phương hướng CCTP là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh”[4].

Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các… luật sư. Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”[5].

Những quan điểm mang tính chủ trương đó của Đảng ta là nền tảng tư tưởng chính trị cho việc triển khai phát triển nhân lực tư pháp, trước hết là xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhân lực tư pháp ở nước ta. Dựa vào đó, các đề án phát triển nhân lực tư pháp được Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và Học viện Tư pháp đã được xây dựng, tổ chức thực hiện và đã thu được những kết quả nhất định.

Qua nghiên cứu cho thấy, bên cạnh các kết quả đạt được, việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp vẫn còn một số hạn chế. Câu hỏi đặt ra là, Đảng ta đã đưa ra chủ trương CCTP nói chung, trong đó có chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, còn Nhà nước ta đã có chiến lược phát triển nhân lực tư pháp hay chưa? Chúng tôi cho rằng, Nhà nước ta chưa có chiến lược đó với đầy đủ ý nghĩa của nó. Đây là một sự chậm trễ cần sớm được khắc phục. Việc Nhà nước tiến hành CCTP mới chỉ dựa vào các nội dung cụ thể trong chủ trương của Đảng về CCTP nói chung, về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng, mà chưa có chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, là chưa phù hợp về logic chính trị, chưa thực sự khoa học, chưa phù hợp với thực tiễn, do vậy, kết quả đem lại chưa như mong muốn.

Chúng tôi cho rằng, đã đến lúc cần phải xây dựng chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Đó phải là chiến lược của Nhà nước về phát triển nhân lực tư pháp, được xây dựng dựa trên những luận điểm mang tính chủ trương của Đảng về xây dựng cán bộ tư pháp đã được ghi nhận trong Chiến lược mới về CCTP ở nước ta giai đoạn tới (2021-2030).

2. Quan niệm về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

Nhân lực tư pháp là đối tượng của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia. Do vậy, nhận thức đúng về nhân lực tư pháp, sẽ là cơ sở để xây dựng và tổ chức thực hiện đúng chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia. Quan niệm về nhân lực tư pháp xác định phạm vi, đối tượng, nội dung của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia.

Nhân lực tư pháp là một bộ phận, một loại nhân lực quốc gia, là một loại nhân lực pháp luật. Có bao nhiêu loại nhân lực, thì có bấy nhiêu loại chiến lược về các loại nhân lực đó. Nhân lực pháp luật bao gồm nhân lực xây dựng pháp luật, nhân lực thực thi pháp luật, nhân lực tư pháp, nhân lực nghiên cứu và đào tạo pháp luật và các loại nhân lực pháp luật khác. Nên chăng, hiểu nhân lực tư pháp ở nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Nhân lực tư pháp ở nghĩa hẹp là những người thực hiện quyền tư pháp - đội ngũ Thẩm phán. Nhân lực tư pháp ở nghĩa rộng, là những người thực hiện quyền tư pháp - đội ngũ Thẩm phán và những người tham gia thực hiện quyền tư pháp - đội ngũ Kiểm sát viên, đội ngũ Điều tra viên, đội ngũ những người tham gia hoạt động tố tụng tư pháp, đội ngũ các chức danh khác làm việc trong các cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Tòa án) và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp.

Nhân lực tư pháp là chủ thể xây dựng, tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhân lực tư pháp. Đương nhiên, có các chủ thể khác xây dựng, tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện, tham gia thực hiện chiến lược phát triển nhân lực tư pháp. Nhân lực tư pháp có năng lực, có trình độ, có kinh nghiệm, thì sẽ xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược phát triển nhân lực tư pháp.

Nhân lực tư pháp là kết quả của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp. Mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp là xây dựng được đội ngũ nhân lực tư pháp, xét cả trên phương diện về lượng và trên phương diện về chất, đáp ứng được việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tư pháp, của CCTP. Đội ngũ nhân lực tư pháp như vậy, vừa là mục tiêu hướng đến và vừa là kết quả của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp.

Nguồn nhân lực tư pháp là lực lượng, nguồn lực phát sinh ra hoặc có thể cung cấp đội ngũ nhân lực tư pháp. Các cơ sở đào tạo pháp luật tạo ra nguồn nhân lực pháp luật. Nguồn nhân lực pháp luật càng dồi dào, càng có chất lượng, thì càng có khả năng cung cấp nguồn nhân lực tư pháp có chất lượng. Nhân lực tư pháp được hình thành từ nguồn nhân lực pháp luật, nguồn nhân lực tư pháp.

Để xây dựng được chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia phù hợp, cần tiến hành nghiên cứu, điều tra xã hội học, đánh giá thực trạng loại nhân lực đó một cách toàn diện, hệ thống về số lượng và chất lượng, tổng thể và cụ thể, theo từng loại nhân lực tư pháp.

Câu hỏi đầu tiên cần được trả lời: chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia là gì? Dựa vào quan niệm phổ biến hiện nay về chính sách công, dưới dạng khái quát nhất, trước hết, có thể hiểu, chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống để xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, sách lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia. Điều đó có nghĩa rằng, chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, là công việc phải làm, là một loại hoạt động - hoạt động chính sách. Hoạt động đó không thể diễn ra một cách ngẫu nhiên, hơn thế nữa, không thể diễn ra một cách tùy tiện, mà phải có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống. Tính khoa học, tính nhất quán, tính hệ thống là những thuộc tính của hoạt động đó. Bản thân chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, là một loại hoạt động tổ hợp, bao gồm nhiều hoạt động chiến lược cụ thể trong lĩnh vực phát triển nhân lực tư pháp. Đó là hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, sách lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia.

Từ phân tích trên, có thể hiểu, chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của các thiết chế phi nhà nước để xác định và thực hiện mục tiêu, quan điểm, định hướng, nội dung, giải pháp phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, xác định các điều kiện cần thiết cho phát triển nhân lực tư pháp có chất lượng, hiệu quả.

Chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia có một số đặc điểm sau:

- Là một bộ phận, một loại của chiến lược phát triển nhân lực quốc gia;

- Là một loại của chiến lược phát triển nhân lực pháp luật quốc gia;

- Là một nội dung hay bộ phận chiến lược cấu thành của chiến lược CCTP;

- Là một loại chiến lược độc lập, bởi lẽ, nó có đầy đủ các bộ phận cấu thành;

- Là chiến lược có chủ thể, mục tiêu và nội dung tương xứng.

3. Mục tiêu và quan điểm của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

Mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, là kết quả lý tưởng, kết quả mong muốn, mà vì nó, chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia được xây dựng và được tổ chức thực hiện. Việc xác định mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, cần phải xuất phát, dựa vào và phản ánh nhu cầu phát triển nhân lực tư pháp quốc gia. Chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia có nhiều mục tiêu khác nhau: mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể, mục tiêu dài hạn, mục tiêu trung hạn và mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu về số lượng và mục tiêu về chất lượng, mục tiêu về chuyên môn, mục tiêu về đạo đức, mục tiêu về chính trị và các mục tiêu khác.

Hệ thống các mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, là sự vật không đứng im, bởi vì, các điều kiện bên ngoài và bên trong luôn được biến đổi, các nhu cầu, lợi ích quyết định việc xác định mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia cũng được biến đổi. Các tình tiết đã được biến đổi đó, cũng làm thay đổi cả quan niệm về các mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược đó.

Những phân tích lý luận nói trên về mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, là một trong những căn cứ được sử dụng để xác định mục tiêu của chiến lược đó.

Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, theo quan điểm của chúng tôi, là phát triển nhân lực tư pháp quốc gia đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, bảo đảm chất lượng, có đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tư pháp, CCTP, của xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn mới 2021-2030, tầm nhìn 2045.

Mục tiêu cụ thể của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, có thể được xác định theo những thông số khác nhau như: theo thời hạn (chẳng hạn: 05 năm, 10 năm hoặc lâu hơn), theo số lượng tổng thể và theo các loại nhân lực (chức danh) tư pháp (chẳng hạn: Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên), theo chất lượng, theo mô hình tổ chức, theo tổ chức, theo tiêu chuẩn đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng,...

Cần phải xác định mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2045 cả trên phương diện số lượng lẫn trên phương diện về chất.

- Mục tiêu về số lượng: Cần phải tăng số lượng Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư và các chức danh tư pháp khác, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tư pháp, CCTP trong giai đoạn mới: Sự gia tăng của tình hình tội phạm, tình hình tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình lao động, kinh doanh, thương mại, hành chính và các loại tranh chấp khác liên quan đến tư pháp; tính chất phức tạp của tình hình tội phạm và của các loại tranh chấp đó; chỉ tiêu làm việc của cán bộ tư pháp;...

- Mục tiêu về chất lượng: Nâng cao chất lượng nhân lực tư pháp để nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự, các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại, hành chính; để bảo vệ có hiệu quả công lý, quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

- Mục tiêu phát triển nhân tài tư pháp: Cần phải xác định việc xây dựng và phát triển nhân tài tư pháp với tư cách là phát triển một loại nhân tài pháp luật. Muốn vậy, cần phải phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng, trọng dụng nhân tài tư pháp và có chính sách tương ứng đối với nhân tài tư pháp.

Quan điểm của chiến lược là thành tố không thể thiếu của mọi chiến lược. Xác định đúng quan điểm của chiến lược, là một nội dung của chiến lược. Quan điểm của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, được hiểu là các tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia.

Quan điểm phát triển nhân lực tư pháp giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2045 bao gồm các quan điểm chuyên môn, đạo đức và các quan điểm chính trị. Các quan điểm đó đã được ghi nhận trong các văn bản chỉ đạo của Đảng, trong các văn bản tương ứng của Nhà nước. Đó là các quan điểm: phát triển nhân lực tư pháp theo hướng chuyên môn hóa; phát triển nhân lực tư pháp theo hướng bảo đảm các phẩm chất chính trị, đạo đức; phát triển nhân lực tư pháp theo hướng trong sạch, vững mạnh, có dũng khí đấu tranh vì công lý; phát triển nhân lực tư pháp theo hướng động và mở và các quan điểm khác.

4. Các định hướng phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

Các định hướng phát triển nhân lực tư pháp có thể được xác định dựa vào các tiêu chí khác nhau. Đó là các định hướng phát triển tổng thể, toàn diện, bao trùm, có sự phân hóa hài hòa, hợp lý bên trong từng loại nhân lực cụ thể và các định hướng cụ thể, theo các loại nhân lực tư pháp cụ thể như: định hướng phát triển đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ thi hành án và các loại nhân lực tư pháp khác. Đó là các định hướng phát triển nhân lực tư pháp theo các ngạch bậc của từng loại nhân lực tư pháp như: nhân lực sơ cấp, nhân lực trung cấp, nhân lực cao cấp. Đó là các định hướng phát triển nhân lực lãnh đạo, quản lý, chuyên môn trong lĩnh vực tư pháp.

Nghiên cứu Nghị quyết số 49 cho thấy, Nghị quyết đã chỉ ra việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp với tư cách là một trong những phương hướng[6] CCTP, đồng thời chỉ ra đó cũng là một trong bảy nhiệm vụ[7] CCTP. Mặt khác, Nghị quyết cũng chỉ ra hoạt động tư pháp, mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao khi xác định mục tiêu cải cách tư pháp[8], xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm[9]. Tuy vậy, Nghị quyết không chỉ ra việc phát triển nhân lực tư pháp là một ưu tiên của Chiến lược nói chung, loại nhân lực tư pháp nào cần tập trung xây dựng và phát triển, tức là, không chỉ ra sự ưu tiên, trọng tâm của phát triển loại nhân lực tư pháp cụ thể nói riêng. Chúng tôi cho rằng, điều đó là một hạn chế cần được khắc phục.

Định hướng của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2045, theo quan điểm của chúng tôi, cần coi phát triển nhân lực Thẩm phán là trọng tâm của phát triển nhân lực tư pháp ở nghĩa rộng. Chuyên môn hóa Thẩm phán, đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý đối với các loại nhân lực tư pháp. Điều đó là hoàn toàn đúng bản chất, hợp logic, bởi lẽ, theo Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan thực hiện quyền tư pháp và tham gia thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động xét xử là hoạt động trọng tâm trong các hoạt động tư pháp.

Vấn đề tiếp theo được đặt ra là, phát triển đội ngũ Thẩm phán với tư cách là trọng tâm của phát triển nhân lực tư pháp, cần phải được tiến hành cụ thể như thế nào? Chúng tôi cho rằng, phát triển đội ngũ Thẩm phán, cần được tiến hành theo hướng chuyên môn hóa Thẩm phán, đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán, nâng cao trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm xã hội của Thẩm phán, vị thế của Thẩm phán trong nhân lực tư pháp, trong cơ chế quyền lực nhà nước, trong xã hội.

5. Nội dung của phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

Nội dung của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp, cần phải hướng đến việc trang bị hệ thống tri thức cần thiết như thế nào cho đội ngũ nhân lực tư pháp. Nói đến nội dung phát triển nhân lực tư pháp, là nói đến việc trang bị hệ thống tri thức như thế nào, theo những tiêu chuẩn nào để phát triển nhân lực tư pháp.

Tri thức cần trang bị cho đội ngũ nhân lực tư pháp là một hệ thống tri thức bao gồm tổ hợp tư duy pháp lý, các kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, hội nhập quốc tế liên quan đến pháp luật, đến thực thi pháp luật, khả năng, năng lực, kỹ năng pháp luật, kiến thức thực tiễn về pháp luật, kiến thức về đạo đức và những tri thức liên quan khác.

Phát triển nhân lực tư pháp theo các tiêu chuẩn về chuyên môn, về đạo đức, về chính trị, trong đó, phải coi trọng tiêu chuẩn chuyên môn và đạo đức. Các tiêu chuẩn phát triển nhân lực tư pháp về chuyên môn bao gồm các tiêu chuẩn chung và các tiêu chuẩn riêng đối với từng loại nhân lực tư pháp (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên,...). Các tiêu chuẩn phát triển nhân lực tư pháp về đạo đức cũng bao gồm các chuẩn mực đạo đức chung đối với mọi loại nhân lực và các chuẩn mực đạo đức đối với từng loại nhân lực tư pháp (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên,...). Các tiêu chuẩn phát triển nhân lực tư pháp về chính trị, là các đòi hỏi về chính trị đối với nhân lực tư pháp.

Việc xác định đúng hệ thống tri thức và hệ các tiêu chuẩn nói trên, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng các chương trình đào tạo tổng thể và cụ thể để phát triển nhân lực tư pháp. Từng chương trình đào tạo bao gồm một khối lượng kiến thức nhất định, theo những tiêu chuẩn nhất định. Nghiên cứu các chương trình đào tạo nhân lực pháp luật nói chung, nhân lực tư pháp nói riêng ở nước ta hiện nay cho thấy, các chương trình đào tạo đó chưa hoàn toàn phù hợp, chưa theo hệ thống tri thức cần thiết và hệ các tiêu chuẩn đối với phát triển nhân lực tư pháp, do vậy, chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao, chưa phúc đáp đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ đã được đặt ra đối với CCTP.

Về vấn đề này, Nghị quyết số 49 đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”[10].

Thực hiện nội dung này của Chiến lược CCTP, các cơ sở đào tạo đã hoàn thiện, đổi mới các chương trình, nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, bước đầu đã kết hợp kiến thức chuyên môn với kiến thức về chính trị, kiến thức về đạo đức. Các cơ quan có thẩm quyền tương ứng đã xây dựng các tiêu chí về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức đối với các loại chức danh tư pháp cụ thể, để áp dụng trong thực tiễn và bước đầu thu nhận được những kết quả nhất định.

Để phát triển nhân lực tư pháp, đặc biệt đội ngũ Thẩm phán về đạo đức, Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia đã ban hành Quyết định số 87/QĐ-HĐTC ngày 04/7/2018 về Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán Việt Nam. Quyết định đó đã điều chỉnh những vấn đề cơ bản, cốt lõi liên quan đến đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, bao gồm những quy định chung, những chuẩn mức đạo đức của Thẩm phán, những quy tắc ứng xử của Thẩm phán. Hiện nay, trong các chương trình đào tạo tại Học viện Tòa án đã có nội dung này và được học viên đón nhận một cách tích cực.

Tuy vậy, thực tiễn CCTP cho thấy, nội dung phát triển nhân lực tư pháp còn nhiều hạn chế. Đó là hệ tiêu chuẩn đối với nhân lực tư pháp nói chung, đối với từng loại nhân lực tư pháp nói riêng vẫn chưa được xác định rõ ràng, cụ thể; hệ thống kiến thức trang bị cho đội ngũ nhân lực tư pháp còn mang nặng kiến thức pháp luật thực định, chưa coi trọng kiến thức xã hội, kiến thức đạo đức; nội dung các chương trình đào tạo chưa được đổi mới thực sự, chưa mang tính đa ngành, liên ngành để phục vụ cho hoạt động thực tiễn.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, các yêu cầu, đòi hỏi mới và những hạn chế trong nội dung phát triển nhân lực tư pháp như đã phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng, cần phải đổi mới mạnh mẽ nội dung phát triển nhân lực tư pháp. Đổi mới nội dung phát triển nhân lực tư pháp quốc gia theo hướng mở rộng các tiêu chuẩn, nâng cao các đòi hỏi đối với nhân lực tư pháp; mở rộng kiến thức theo hướng kết hợp kiến thức pháp luật với các kiến thức xã hội, đạo đức, văn hóa, chính trị, quốc tế; áp dụng cách tiếp cận liên ngành, đa ngành, liên ngành trong xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng,...

6. Các giải pháp phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

6.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nhân lực tư pháp

Sự lãnh đạo của Đảng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhân lực tư pháp. Nội dung sự lãnh đạo thể hiện ở việc Đảng đề ra các quan điểm, định hướng, giải pháp, các tiêu chí chính trị để phát triển nhân lực tư pháp. Trước hết, đó là các quan điểm, định hướng, giải pháp về giáo dục tư tưởng chính trị, quản lý, giám sát, kiểm tra hoạt động của đảng viên làm việc trong các cơ quan tư pháp. Tiếp đến, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trong việc xác định những vấn đề mang tính chiến lược trong công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp, trong việc phân công đồng chí cấp ủy viên để được bổ nhiệm làm Chánh án Tòa án và Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp.

Về vấn đề này, Nghị quyết số 49 đã chỉ rõ: “Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án các cấp”[11].

Những nội dung đó của Nghị quyết từng bước đã được hiện thực hóa trong công tác lãnh đạo của cấp ủy các cấp đối với phát triển nhân lực tư pháp, tập trung lãnh đạo sát thực về chính trị tư tưởng, tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp trong quá trình CCTP ở nước ta thời gian qua. Công tác đào tạo, quy hoạch, tuyển chọn, bố trí, sử dụng, luân chuyển cán bộ trong các cơ quan tư pháp đã được các cấp ủy thực hiện thường xuyên, có hiệu quả.

Các cấp ủy đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ nhân lực tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ; tăng cường quản lý, kiểm tra hoạt động của đảng viên. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, cần phải tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nhân lực tư pháp theo hướng, đưa ra hệ các tiêu chí và chủ trương thể chế hóa hệ các tiêu chí tuyển chọn, tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng, đánh giá nhân lực tư pháp, chế độ, chính sách đối với nhân lực tư pháp, bảo đảm tính độc lập, sự thượng tôn pháp luật của Thẩm phán, nâng cao chất lượng của Thẩm phán.

6.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế pháp luật về nhân lực tư pháp

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp, trong đó, thể chế pháp luật giữ vị trí trung tâm. Đảng ta khẳng định, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế là một trong ba khâu đột phá để phát triển đất nước[12]. Pháp luật về nhân lực tư pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến nhân lực tư pháp nói chung (hay theo cách gọi hiện nay, là chức danh tư pháp nói chung) và các loại nhân lực tư pháp cụ thể nói riêng (hay theo cách gọi hiện nay là các chức danh tư pháp cụ thể: Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên,...). Đó là điều chỉnh về vai trò, địa vị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các loại nhân lực tư pháp (chức danh tư pháp), danh dự, uy tín, việc bảo vệ nhân lực tư pháp và những vấn đề khác có liên quan.

Về vấn đề này, Nghị quyết số 49 đã chỉ rõ: việc xây dựng thể chế về nhân lực tư pháp “theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”[13].

Quan điểm đó đã được thể chế hóa trong pháp luật hiện hành, trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Luật sư và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Đó là các quy định về các tiêu chuẩn chung đối với nhân lực tư pháp nói chung, về các tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại nhân lực tư pháp nói riêng, chẳng hạn, các tiêu chuẩn đối với Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên.

Nghiên cứu thực trạng các quy định đó cho thấy, việc điều chỉnh pháp luật về các tiêu chuẩn đối với nhân lực tư pháp còn hạn hẹp, chưa bao quát hết những vấn đề quan trọng của phát triển nhân lực tư pháp, do vậy, chưa tạo ra cơ sở pháp luật đầy đủ cho phát triển nhân lực tư pháp. Chẳng hạn, những vấn đề quan trọng chưa được điều chỉnh tập trung, đúng tầm như: vị thế, vai trò, vị trí, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của Thẩm phán trong cơ chế thực hiện quyền tư pháp; quá trình đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sử dụng Thẩm phán; vấn đề bảo vệ Thẩm phán và những vấn đề khác. Ở các nước, nhân lực tư pháp nói chung, đặc biệt Thẩm phán là đối tượng được điều chỉnh rất đầy đủ, mang tính tập trung, hệ thống. Chẳng hạn, ở nước Nga có luật về Thẩm phán và bảo vệ Thẩm phán.

Xuất phát từ những phân tích trên, theo chúng tôi, cần phải hoàn thiện pháp luật về nhân lực tư pháp theo hướng điều chỉnh tập trung, đúng tầm vị thế, vai trò, vị trí, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên và các loại nhân lực tư pháp khác, bằng các đạo luật cụ thể.

6.3. Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực tư pháp quốc gia

Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực, là giải pháp của mọi chiến lược phát triển nhân lực, trong đó có chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia. Quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực tư pháp quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ CCTP, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ và hội nhập quốc tế.

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực tư pháp nói chung và theo các loại nhân lực tư pháp nói riêng; bảo đảm cơ cấu về trình độ, lứa tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, vùng miền, cả vĩ mô và vi mô, bảo đảm số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng. Đặc biệt quy hoạch, kế hoạch, đề án đó cần phải chú trọng đến nhân tài tư pháp, nhân lực chuyên nghiệp, nhân lực lãnh đạo, quản lý. Quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực tư pháp, là căn cứ để tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, trọng dụng nhân lực tư pháp.

Thời gian qua, trong tiến trình CCTP, các chủ thể có thẩm quyền đã xây dựng và thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển cán bộ tư pháp, từng bước nâng tầm công tác đó và đã đạt được những kết quả nhất định. Song, thực tiễn cũng cho thấy, các quy hoạch, kế hoạch, đề án đó chưa cơ bản, chưa toàn diện, chưa hệ thống và chưa ngang tầm, do vậy, chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Do đó, dựa trên chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, cần xây dựng kế hoạch cụ thể phát triển nhân lực tư pháp cho từng loại nhân lực tư pháp. Cần xây dựng các đề án cụ thể để phát triển nhân lực tư pháp, chẳng hạn, đề án phát triển Thẩm phán giai đoạn 2021- 2025... Nhà nước cần phải cung cấp và tạo ra các nguồn lực cần thiết, để thực hiện có hiệu quả, chất lượng các đề án đó.

6.4. Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tư pháp quốc gia

Mọi chiến lược phát triển nhân lực, đều phải có giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tương ứng. Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tư pháp, là giải pháp rất quan trọng của chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, góp phần nâng cao trí tuệ, trình độ, năng lực, khả năng, phương pháp tư duy, phương pháp làm việc sáng tạo, phát triển nhân cách của nhân lực tư pháp.

Cần phải xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp đối với từng loại nhân lực tư pháp cụ thể. Các loại chương trình đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, cần phải được thiết kế dựa trên hệ kiến thức, hệ tiêu chuẩn đối với từng loại nhân lực tư pháp cụ thể, theo hướng đổi mới, trang bị những kiến thức mới, phúc đáp các đòi hỏi mới về tiêu chuẩn, chứ không phải dựa vào năng lực hiện có của đội ngũ giảng viên, vào lợi ích trước mắt của cơ sở đào đạo, bồi dưỡng theo Nghị quyết số 49.

Nghiên cứu các chương trình đào tạo, bồi dưỡng hiện có đối với nhân lực tư pháp nói chung, các loại nhân lực tư pháp nói riêng cho thấy, một mặt, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng đó từng bước đã được đổi mới, tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế, khu vực, nhưng mặt khác, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao đối với nhân lực tư pháp. Do vậy, cần phải tiếp tục đổi mới các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tư pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tư pháp, phục vụ, thúc đẩy sự nghiệp tư pháp, CCTP.

Mọi hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, trong đó có đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tư pháp, đòi hỏi phải có các nguồn lực nhất định, phải được đầu tư. Chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tư pháp tùy thuộc vào các nguồn lực và sự đầu tư đó. Do vậy, chúng tôi cho rằng, đã đến lúc, nếu không nói là đã muộn, cần tập trung đầu tư nhiều hơn nữa cho phát triển nhân lực tư pháp, đặc biệt là cho việc phát triển đội ngũ Thẩm phán, phát triển nhân tài tư pháp.

6.5. Tuyển chọn, tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân lực tư pháp

Hệ thống tuyển chọn, tuyển dụng hợp pháp, hợp lý, chặt chẽ và khoa học đóng vai trò rất quan trọng trong xây dựng và phát triển nhân lực tư pháp. Tuyển chọn, tuyển dụng đúng nhân lực tư pháp là cơ sở, tiền đề, điều kiện để tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đúng nhân lực tư pháp. Tuyển chọn, tuyển dụng không đúng, hơn nữa, tuyển chọn, tuyển dụng sai nhân lực tư pháp, sẽ dẫn đến những hậu quả nguy hại, khôn lường.

Tuyển chọn, tuyển dụng phải xuất phát và dựa vào quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực tư pháp và theo nguyên tắc cạnh tranh, dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng, khách quan, để chọn được người tài, người giỏi, người có khả năng thực hiện tốt, có chất lượng chức năng, nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt giải pháp này, sẽ tránh được sự lãng phí trong sử dụng nhân lực tư pháp.

Sử dụng nhân lực tư pháp phải đúng đắn và hợp lý. Kinh nghiệm sử dụng nhân lực tư pháp của các nước trên thế giới cho thấy, sử dụng đúng đắn và hợp lý nhân lực tư pháp quyết định sự thành công của sự nghiệp tư pháp, CCTP. Có nhiều phương thức sử dụng nhân lực tư pháp, trong đó có các phương thức quan trọng như: sử dụng đúng năng lực, khả năng, sở trường, năng khiếu, phát huy tài năng của nhân lực tư pháp.

Trọng dụng nhân lực tư pháp sẽ phát huy được tiềm năng, khuyến khích nhân lực tư pháp sáng tạo, làm việc có trách nhiệm cao, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. Cần phải trọng dụng, tôn vinh nhân lực tư pháp có chất lượng cao, nhân tài tư pháp, tin cậy và có chế độ đãi ngộ phù hợp với nhân lực tư pháp theo Nghị quyết số 49.

Cần phải tiếp tục đổi mới tuyển chọn, tuyển dụng, trọng dụng, sử dụng nhân lực tư pháp. Việc đổi mới đó phải được tiến hành theo hệ tiêu chuẩn ngày càng cao, đúng thực chất, đúng quy trình chặt chẽ, khoa học, đổi mới tư duy, nhận thức, hành động của những người làm công tác tuyển chọn, tuyển dụng, trọng dụng, sử dụng nhân lực tư pháp,  có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với công tác đó.

6.6. Đánh giá nhân lực tư pháp

Để đánh giá đúng nhân lực tư pháp, cần phải có hệ tiêu chí đánh giá mang tính khoa học, tính thực tiễn, phù hợp với các đặc điểm của nhân lực tư pháp. Hệ tiêu chí đó phản ánh được kết quả hoạt động, trách nhiệm của nhân lực tư pháp theo các tiêu chí chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và chính trị.

Hệ tiêu chí đánh giá nhân lực tư pháp cần phải bao gồm các tiêu chí về lượng và các tiêu chí về chất, về trạng thái được đào tạo lại, được bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt. Các tiêu chí về lượng thể hiện ở số lượng công việc được giao, tần suất làm việc, ví dụ, số lượng các vụ việc được giao giải quyết, số lượng các bản án không bị sửa. Các tiêu chí về chất, thể hiện tập trung ở chất lượng, hiệu quả của công việc đã hoàn thành, ví dụ, chất lượng của các quyết định được đưa ra. Trạng thái được đào tạo lại, được bồi dưỡng thể hiện ở số lượng và chất lượng các đợt tập huấn theo chuyên đề chuyên sâu, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ được giao, tập huấn về các văn bản pháp luật mới được ban hành, ở việc trang bị các kiến thức lý luận mới.

Hệ tiêu chí đánh giá nhân lực tư pháp bao gồm các loại tiêu chí khác nhau: các tiêu chí về chuyên môn nghiệp vụ, các tiêu chí về đạo đức, các tiêu chí về chính trị. Mỗi tiêu chí đều có các chỉ số tương ứng và các chỉ số đó cần phải bao quát hết nội dung của tiêu chí đó. Đối với từng loại nhân lực tư pháp, ngoài các tiêu chí chung, còn có các tiêu chí riêng. Chẳng hạn, các tiêu chí về đạo đức công vụ, là các tiêu chí chung đối với mọi nhân lực, còn tiêu chí về đạo đức trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, lại có tiêu chí riêng, đặc thù, gắn liền với các đặc điểm của hoạt động tư pháp.

6.7. Chế độ, chính sách đối với nhân lực tư pháp

Xây dựng chế độ, chính sách phù hợp với vai trò, vị trí của nhân lực tư pháp trong đội ngũ nhân lực quốc gia. Trước hết, cần phải có chế độ tiền lương và các chế độ đãi ngộ thỏa đáng, tương thích với địa vị, tính chất công việc, cống hiến của nhân lực tư pháp, để họ an tâm làm việc, không phải lo đến đời sống vật chất hàng ngày của họ.

Về vấn đề này, Nghị quyết số 49 đã chỉ rõ: “Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp”[14]. Nội dung này của Chiến lược chưa được triển khai thực hiện đầy đủ, mạnh mẽ trong thực tiễn, do vậy, chưa phát huy hết năng lực, khả năng, sự cống hiến của cán bộ tư pháp. Chúng tôi cho rằng, cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, mang tính đột phá về chế độ, chính sách đối với nhân lực tư pháp, đặc biệt là chính sách tiền lương và các ưu đãi khác đối với Thẩm phán.

6.8. Tạo lập môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất để phát triển nhân lực tư pháp

Cần tạo lập môi trường làm việc dân chủ, độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao để họ phát huy, cống hiến hết khả năng, sức lực và trí tuệ cho nền tư pháp nước nhà. Cần tạo điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện và công cụ làm việc đầy đủ và hiện đại.

Nghị quyết số 49 đã rất chú trọng đến nội dung này, với tư cách là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển nhân lực tư pháp nói riêng, để CCTP nói chung. Nghị quyết đã chỉ rõ: “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước.

Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ quan tư pháp cấp huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được Chính phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp”[15].

Nghiên cứu thực tiễn cho thấy, việc phân bổ ngân sách, đầu tư xây dựng trụ sở, phương tiện, trang thiết bị làm việc cho các cơ quan tư pháp được quan tâm hơn, đã tạo điều kiện để các cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp làm việc có chất lượng, hiệu quả hơn. Nhưng mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy, việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho hoạt động tư pháp chưa phù hợp với đặc thù của từng cơ quan; chưa có cơ chế thống nhất để các địa phương phân bổ, hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cơ sở vật chất, trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp ở một số địa phương còn thiếu, chưa được đầu tư nâng cấp, hoặc xây dựng mới phù hợp với yêu cầu CCTP; nhiều trụ sở Tòa án nhân dân chưa được cải tạo, xây dựng mới; một số nhà tạm giữ chưa có đủ buồng giam giữ phạm nhân... Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp, tiếp tục tạo lập môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất để đảm bảo phát huy các tiềm năng phát triển của nhân lực tư pháp.

 7. Kiến nghị

Trên sơ sở các phân tích trên, chúng tôi kiến nghị:

- Cần nghiên cứu, xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nhân lực tư pháp quốc gia với tư cách là một loại chiến lược phát triển nhân lực quốc gia.

- Xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực tư pháp quốc gia giai đoạn 2021- 2030, có lộ trình cụ thể.

- Hoàn thiện pháp luật về nhân lực tư pháp; xây dựng và ban hành Luật về Thẩm phán và bảo vệ Thẩm phán.

- Xây dựng chính sách đãi ngộ mới, đảm bảo phù hợp với địa vị của Thẩm phán trong cơ chế quyền lực nhà nước, vị thế của Thẩm phán trong xã hội.

- Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo nguồn nhân lực pháp luật, nguồn nhân lực tư pháp, đặc biệt là nguồn Thẩm phán, để đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi mới của CCTP, của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

 

 

[1] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr.220.

[2] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr.220-221.

[3] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[4] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[5] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[6] Xem: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[7] Xem: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[8] Xem: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[9] Xem: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[10] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[11] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[12] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 220.

[13] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2020 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[14] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[15] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

GS.TS. VÕ KHÁNH VINH (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam)