Xây dựng Tòa án phục vụ Nhân dân, mang lại công lý cho Nhân dân

Bài viết tập trung phân tích, làm rõ một số nội dung cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp theo các nghị quyết của Đảng ở nước ta hiện nay, từ đó định hướng một số nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng Tòa án phục vụ Nhân dân, mang lại công lý cho Nhân dân.

Dẫn nhập

Sau 20 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp theo các nghị quyết của Đảng, hệ thống tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao vị thế, diện mạo, uy tín và kết quả hoạt động của cơ quan tư pháp. Tòa án được khẳng định là “cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp” tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013; pháp luật về tư pháp từng bước được hoàn thiện theo hướng tăng cường tranh tụng trong xét xử, tăng tính dân chủ, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng… Tuy nhiên, nền tư pháp nước ta vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu và mong muốn của người dân; cơ chế Nhân dân tham gia hoạt động xét xử chưa thực chất, chưa nâng cao được trách nhiệm và chủ động của người dân trong thực hiện quyền tư pháp.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định rõ: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[1]. Do vậy, cải cách tư pháp trong thời gian tới phải gắn với hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phải xây dựng được hệ thống Tòa án nhân dân độc lập, chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, văn minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; để Nhân dân cảm thụ công bằng, lẽ phải qua mỗi phán quyết tư pháp; tăng cường tính nhân dân trong hoạt động tư pháp. Trong đó, tập trung chủ yếu vào những nhiệm vụ trọng tâm lớn sau:

1. Xây dựng cơ quan tư pháp vì Nhân dân, phục vụ Nhân dân, để Nhân dân cảm thụ công bằng, lẽ phải, tin tưởng vào hoạt động của cơ quan tư pháp

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…”[2]; “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[3]; “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”[4].

Căn cứ quy định của Hiến pháp năm 2013 và để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cần tiếp tục đổi mới hệ thống Tòa án nhân dân nhằm hoàn thành tốt sứ mệnh là một trong những cơ quan quyền lực nhà nước và là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp. Trong đó, tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân; bảo vệ cuộc sống thanh bình của Nhân dân, nâng cao niềm tin của người dân vào một nền tư pháp dân chủ, công bằng, nghiêm minh; để Nhân dân cảm thụ được công bằng, lẽ phải, tin tưởng vào hệ thống tư pháp và tăng cường bảo vệ quyền uy tư pháp. Phải bảo đảm mỗi phán quyết của Tòa án trở thành án văn mẫu mực, thể hiện tập trung, rõ nét nhất về quyền tư pháp; là chuẩn mực pháp lý, có tác dụng giáo dục pháp luật, định hướng hành vi của người dân và xã hội.

Công lý không thể bị trì hoãn vì bất kỳ lý do gì, bởi việc chậm mang lại công lý cho người dân cũng đồng nghĩa với niềm tin vào Tòa án bị xói mòn.[5] Do đó, pháp luật tố tụng của Việt Nam cũng quy định rõ ràng thời hạn tố tụng của từng thủ tục, từng hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án nhằm ràng buộc Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc nhanh chóng. Hoạt động tố tụng tư pháp phải tuân thủ nghiêm ngặt thời hạn do luật định đó để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân, để Nhân dân thụ hưởng được công bằng, lẽ phải một cách nhanh chóng nhất.

Bên cạnh đó, pháp luật phải đề cao quyền tự quyết của các bên trong giải quyết các vụ án dân sự và hành chính. Giải pháp tăng cường hòa giải, đối thoại cũng cần được áp dụng để giải quyết các xung đột xã hội một cách thân thiện, giữ gìn hòa thuận trong Nhân dân. Điều này không chỉ giúp giải quyết nhanh các vụ việc, đạt được đồng thuận giữa các bên tranh chấp, tránh các thủ tục tố tụng kéo dài tại Tòa án, gây tốn kém các nguồn lực của xã hội, mà còn bảo đảm việc thực thi kết quả hòa giải, đối thoại đó được thuận lợi và thực chất hơn vì đó là xuất phát từ sự tự nguyện của các bên. Cho đến nay, cơ chế này đã cho thấy những kết quả đáng khích lệ và đáp ứng được mong mỏi của người dân về một cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng, ít tốn kém cho người dân và Nhà nước.[6]

Trong điều kiện phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào mọi mặt đời sống xã hội, thì việc đưa các ứng dụng này vào thực hiện một số hoạt động tố tụng điện tử như: nhận đơn; tống đạt giấy tờ, tài liệu; thông báo kết quả giải quyết đơn; kiểm tra chứng cứ; xét xử trực tuyến; xây dựng hồ sơ tố tụng điện tử... là một yêu cầu cấp thiết nhằm tạo thuận lợi cho Nhân dân trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, giúp Tòa án phục vụ người dân tốt hơn ở mọi lúc, mọi nơi. Các hoạt động tư pháp cũng được công khai để Nhân dân tiếp cận đầy đủ và nhanh chóng, tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền, nghĩa vụ trong tố tụng. Theo đó, bên cạnh việc công khai bản án, quyết định, Tòa án cần tiếp tục công khai kế hoạch đưa vụ án ra xét xử, tiến độ giải quyết vụ án, các văn bản tố tụng, các thủ tục tố tụng, quá trình xét xử, quá trình thi hành án, quá trình giảm án… trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án.

Các dịch vụ tư pháp công để phục vụ Nhân dân tiếp cận Tòa án và thực hiện quyền tố tụng của mình cũng cần được công bố công khai, sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo thuận lợi và tiết kiệm công sức, thời gian, kinh phí của Nhân dân. Trong đó, cần tập trung nghiên cứu và hình thành cơ chế xử lý một cửa khi giải quyết các dịch vụ pháp lý cho Nhân dân; đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ để giúp người dân thực hiện tốt việc đoán định tư pháp, hỗ trợ người dân đưa ra các quyết định của mình, như: cung cấp các bản án với tình huống tương tự để người dân tham khảo và các ứng dụng công nghệ để người dân phân tích các tình huống đó và quyết định khởi kiện hoặc không khởi kiện vụ việc ra trước Tòa án; công nghệ phân tích và dự đoán kết quả tố tụng… 

2. Nâng cao hiệu quả của cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại Tòa án

Nhân dân tham gia vào hoạt động của nhà nước nói chung, hoạt động tư pháp nói riêng là đặc tính của các nhà nước dân chủ, tiến bộ. Ở nước ta, tư tưởng xây dựng một nền tư pháp “lấy dân làm gốc” đã được bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) khẳng định: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình”[7]. Tư tưởng này tiếp tục được phát triển và ghi nhận trong các bản Hiến pháp sau đó bằng nguyên tắc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia” và coi đó như một phương thức để Nhân dân trực tiếp tham gia và giám sát hoạt động xét xử của Tòa án; đồng thời thể hiện rõ nét bản chất của Nhà nước ta là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, Nhân dân; Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.[8]

Bản chất nhân dân, tính chất dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Tòa án không chỉ thể hiện ở việc Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, đại diện cho Nhân dân thực hiện hoạt động xét xử, mang lại công lý cho Nhân dân, mà còn thể hiện ở việc huy động quần chúng Nhân dân tham gia vào hoạt động kiểm tra, giám sát công việc của Tòa án, cũng như bảo vệ công lý. Nếu như coi nguyên tắc “Tòa án nhân dân xét xử công khai” là cơ chế bảo đảm sự kiểm soát từ bên ngoài của Nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án, thì nguyên tắc “xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia” là cơ chế bảo đảm cho Nhân dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động tư pháp, kiểm tra từ bên trong đối với hoạt động này.

Trên thế giới hiện nay có 03 mô hình phổ biến để nhân dân tham gia quá trình xét xử, là: Mô hình Hội thẩm nhân dân (ở Việt Nam, Trung Quốc...); mô hình Hội thẩm đoàn (tương tự Bồi thẩm đoàn ở châu Âu, châu Mỹ...); mô hình đan xen, kết hợp hai mô hình trên (ở Nga...).

Trải qua thực tiễn hoạt động, Hội thẩm nhân dân đã góp phần quan trọng hỗ trợ Thẩm phán làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đưa ra các phán quyết “thấu tình, đạt lý”, phản ánh ý chí của Nhân dân, giám sát từ bên trong quá trình xét xử. Tuy nhiên, Hội thẩm nhân dân phần lớn là những người không được đào tạo chuyên về luật nhưng lại chiếm đa số trong thành phần Hội đồng xét xử và ngang quyền với Thẩm phán; vừa có nhiệm vụ xác định sự thật vụ án, vừa có nhiệm vụ áp dụng pháp luật nên trở thành “gánh nặng” vượt quá năng lực cá nhân của Hội thẩm. Vì vậy, quan điểm của Hội thẩm thường phụ thuộc vào Thẩm phán trong Hội đồng xét xử. Trong khi đó, quy định về trách nhiệm và chế tài đối với Hội đồng xét xử khi ban hành bản án bị hủy, sửa vì nguyên nhân chủ quan chỉ đặt ra đối với Thẩm phán (cách chức, không bổ nhiệm lại...), mà không áp dụng với Hội thẩm... Để tăng cường hơn nữa sự tham gia của Nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án và khắc phục những khiếm khuyết của chế định Hội thẩm hiện hành, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, cần thiết phải tiếp tục đổi mới chế định Hội thẩm theo hướng:

(1) Xây dựng một đạo luật độc lập về Hội thẩm nhằm khắc phục tình trạng phân tán của các quy định về Hội thẩm hiện nay trong nhiều văn bản pháp luật với hiệu lực pháp lý khác nhau; giúp cho việc xác định địa vị pháp lý cũng như thực thi quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm được thuận lợi hơn. Trong đó chú trọng:

(1.1) Đổi mới chức năng, nhiệm vụ của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử, chỉ để Hội thẩm tham gia xác định sự thật vụ án, không tham gia vào việc áp dụng pháp luật nhằm giảm bớt gánh nặng về chuyên môn pháp lý sâu đối với các Hội thẩm nhân dân;

(1.2) Đổi mới về tiêu chuẩn Hội thẩm, trong đó quy định: người được bầu làm Hội thẩm có độ tuổi từ đủ 27 tuổi trở lên; đối với người trên 60 tuổi thì có quyền từ chối làm Hội thẩm; không bắt buộc phải được đào tạo chuyên môn về pháp luật bởi sự tham gia của họ nhằm mang đến những quan niệm đạo đức chung của xã hội, sự nhận xét, đánh giá của Nhân dân về hành vi phạm tội, về tính chất của các tranh chấp theo quan niệm chung về lẽ phải, sự công bằng; bổ sung tiêu chuẩn “có kiến thức chuyên môn về kinh tế, tài chính - ngân hàng, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, tài nguyên - môi trường, xây dựng cơ bản…, lao động, gia đình và người chưa thành niên” với một tỷ lệ nhất định các vụ án có đặc thù nhằm tăng cường tính chuyên môn của Hội thẩm khi tham gia xét xử các loại vụ việc đặc thù cần có chuyên môn sâu. Như vậy, Hội thẩm sẽ được lựa chọn từ nhóm người có sức khỏe tốt, có bản lĩnh chính trị, có kinh nghiệm sống, hiểu biết về các mối quan hệ trong xã hội hoặc có kiến thức chuyên ngành, có uy tín trong cộng đồng dân cư và bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Người cao tuổi.

(1.3) Mở rộng cơ cấu thành phần, đối tượng tham gia làm Hội thẩm theo hướng lựa chọn những công dân đáp ứng đủ tiêu chuẩn làm Hội thẩm, không phân biệt thành phần, tầng lớp xã hội nhằm bảo đảm Hội thẩm thực sự là người đại diện cho Nhân dân, phản ánh đầy đủ ý chí, quan điểm, nhận thức của đại bộ phận Nhân dân vào quá trình xét xử; đồng thời, khắc phục hạn chế về thành phần Hội thẩm chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức như hiện nay.

(1.4) Hoàn thiện các quy định về nhiệm kỳ, việc tuyển chọn, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm, chế độ, chính sách đối với Hội thẩm theo hướng: (i) Quy định nhiệm kỳ của Hội thẩm bằng nửa nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân bầu ra Hội thẩm. Một người không được tham gia làm Hội thẩm 02 nhiệm kỳ liên tiếp để tránh việc Hội thẩm phải tham gia xét xử quá nhiều, tăng cơ hội cho nhiều người dân được tham gia vào việc xét xử của Tòa án. (ii) Bổ sung cơ quan Công an tham gia vào quá trình lập danh sách người có đủ tiêu chuẩn làm Hội thẩm. (iii) Quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù, như: kinh tế, tài chính - ngân hàng, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, tài nguyên - môi trường, xây dựng cơ bản… có quyền giới thiệu ứng cử viên Hội thẩm có kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực tương ứng. (iv) Tổ chức bầu Hội thẩm tại phiên họp đầu tiên và phiên họp giữa nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. (v) Quy định Hội thẩm phải cam kết công tâm, khách quan, liêm chính và tuân thủ pháp luật khi được bầu. (vi) Hội thẩm nhiều lần từ chối tham gia xét xử mà không có lý do chính đáng sẽ bị xem xét bãi nhiệm. (vii) Bổ sung một số chế độ, chính sách như: cơ chế bảo vệ Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình về an ninh, an toàn; trang bị áo choàng xét xử cho Hội thẩm nhằm tạo hình ảnh thống nhất trong Hội đồng xét xử; quy định rõ về cơ chế tôn vinh, khen thưởng Hội thẩm khi hoàn thành tốt nghĩa vụ công dân tham gia hoạt động xét xử tại Tòa án.

(1.5) Đổi mới cơ chế quản lý Hội thẩm theo hướng: Hội đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp có trách nhiệm phối hợp quản lý, giám sát Hội thẩm trong tất cả các mặt, từ việc thực thi nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức đến việc tạo điều kiện thuận lợi để họ được bố trí thời gian hợp lý tham gia công tác tại Tòa án, cũng như bảo đảm các biện pháp bảo vệ Hội thẩm và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết nhằm tăng cường tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của Hội thẩm với Tòa án.

(1.6) Thay đổi số lượng Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử; cơ cấu lại thành phần Hội đồng xét xử có số lượng Thẩm phán vừa bảo đảm nâng cao tính chuyên môn, vừa duy trì được tính đại diện cho Nhân dân trong công tác xét xử.

(1.7) Xây dựng cơ chế xử lý xung đột quan điểm giải quyết vụ án giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong Hội đồng xét xử.

(1.8) Ban hành quy định lựa chọn ngẫu nhiên Hội thẩm từ danh sách Hội thẩm để tham gia xét xử nhằm bảo đảm tính khách quan, vô tư của Hội thẩm khi tham gia xét xử.

(1.9) Nghiên cứu xây dựng Quy chế về Hội thẩm, trong đó xác định rõ trách nhiệm của Hội thẩm; mối quan hệ phối hợp giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong Hội đồng xét xử; đồng thời, xây dựng bộ quy tắc đạo đức của Hội thẩm trên cơ sở các nguyên tắc đạo đức cơ bản như: độc lập, liêm chính, khách quan, đúng mực.

(1.10) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm, trong đó tập trung hoàn thiện các chương trình, kế hoạch và tài liệu đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm và áp dụng thống nhất trên phạm vi toàn quốc; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên và theo chuyên đề cho Hội thẩm theo quy định và nhu cầu thực tế; đẩy mạnh tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm với sự tham gia của Hội thẩm tại phiên họp rút kinh nghiệm ngay sau khi kết thúc phiên tòa để các Hội thẩm trau dồi kiến thức, rèn giũa kỹ năng xét xử.

(2) Nghiên cứu, bổ sung chế định Hội thẩm đoàn trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Theo đó, Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân như pháp luật hiện hành, đồng thời bổ sung thêm thiết chế Hội thẩm đoàn để tăng thêm sự tham gia của Nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án. Hội thẩm đoàn chỉ tham gia xác định: (i) có hành vi phạm tội xảy ra hay không; (ii) bị cáo có phải là người thực hiện hành vi phạm tội đó hay không; (iii) bị cáo có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội hay không; (iv) nếu bị cáo có tội thì có đáng được khoan hồng (như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt...) hay không. Hội thẩm đoàn không tham gia vào việc quyết định tội danh và hình phạt. Đối với các vụ án hình sự khác và các vụ án dân sự, hành chính vẫn được xét xử sơ thẩm với Hội đồng xét xử gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, trừ những vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn.

3. Tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp

Sự giám sát của Nhân dân đối với Tòa án bằng hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua cơ quan dân cử là tất yếu trong tổ chức quyền lực nhà nước khi mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.[9] Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân...”.[10] Do đó, để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống tư pháp, cần tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử theo hướng: Nâng cao hiệu quả và đổi mới cơ chế Nhân dân tham gia xét xử để Nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình một cách thực chất, trực tiếp từ bên trong hoạt động của Tòa án; xây dựng cơ chế để Nhân dân góp ý và tiếp nhận ý kiến phản ánh của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đổi mới việc chất vấn và trả lời chất vấn của cơ quan dân cử đối với Chánh án Tòa án các cấp để bảo đảm độc lập tư pháp; tăng cường giám sát theo chuyên đề, giám sát đột xuất của cơ quan dân cử đối với công tác Tòa án; quy phạm hóa hoạt động giám sát và công khai kết quả giám sát để cử tri được biết.

***

Đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm hình thành nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, việc đổi mới cơ chế Nhân dân tham gia xét xử cũng như tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động của Tòa án là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng cơ quan tư pháp vì Nhân dân, phục vụ Nhân dân, mang lại công lý cho Nhân dân, để Nhân dân cảm thụ công bằng, lẽ phải, tin tưởng vào hoạt động của cơ quan tư pháp./.

 

PGS.TS Nguyễn Hòa Bình -Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC

 

[1] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/van-kien-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-tap-1-403, truy cập ngày 10/11/2022.

[2] Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

[3] Điều 6 Hiến pháp năm 2013.

[4] Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.

[5] Một nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi trong tư pháp là “công lý chậm trễ là công lý bị chối bỏ” (justice delayed is justice denied). Đây cũng là quy định của Công ước Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.

[6] Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, sau hơn một năm triển khai thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (từ 01/01/2021 đến 31/3/2022), số lượng vụ việc được đưa ra hòa giải, đối thoại là 72.495; đã tiến hành hòa giải, đối thoại đối với 60.025 vụ việc. Số vụ việc được hòa giải thành, đối thoại thành là 35.482 vụ việc (đạt tỷ lệ 59,1% tổng số vụ việc được đưa ra hòa giải, đối thoại).

[7] Điều thứ 65 Hiến pháp năm 1946.

[8] Khoản 1, khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

[9] Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất cụ thể, trong đó Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 70); Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao (Điều 74); Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương (Điều 113)…

[10] Điều 8 Hiến pháp năm 2013.

PGS.TS. NGUYỄN HÒA BÌNH (Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao)