Tư tưởng Hồ Chí Minh về Thương binh, Liệt sĩ

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí bị ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”... Hơn 70 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua ngày 27/7 luôn luôn được tổ chức ấm áp, Đảng, Nhà nước và Nhân dân bày tỏ sự trân trọng công lao, cống hiến của đối với thương binh, liệt sĩ.

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dù bộn bề trăm công ngàn việc của một nhà nước cộng hòa non trẻ, còn trứng nước giữa thù trong giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến binh sĩ bị thương tật trong chiến đấu.

Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn, sau đó đổi tên thành Hội giúp binh sĩ bị thương được thành lập ở Thuận Hóa, tỉnh Bình – Trị – Thiên, Hà Nội và một số nơi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh được mời làm Hội trưởng danh dự của hội này. Chiều ngày 28/5/1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới tham dự.

Ngày 10/3/1946, báo Cứu quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ, trong thư có đoạn: “Tôi kính cẩn cúi chào các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”. Tiếp sau đó, trong thư gửi đồng bào Việt Nam, Bác nhấn mạnh: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sỹ và đồng bào Việt Nam vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng”.

Chiều 7/11/1946, tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, trong buổi quyên góp ủng hộ quần áo, giày mũ cho chiến sỹ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sỹ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sỹ.

Ngày 19/12/1946, sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương và tử nạn tăng lên rất nhanh. Đời sống của binh lính lúc đó, nhất là những binh sĩ bị thương, gia đình liệt sĩ gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trước tình hình đó, ngày 7/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi”. Thông báo có đoạn viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ, cám ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó và tôi nhận các con liệt sĩ làm con của tôi”. Người đã yêu cầu các làng, chính quyền địa phương lập danh sách, xem xét, nếu đúng sự thật thì “đóng dấu chứng nhận rồi gửi ngay về Văn phòng Chủ tịch Chính phủ ở Hà Nội”.

Năm 1947, cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp ngày càng ác liệt, nhiều chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, thêm nhiều người trở thành thương binh, bệnh binh. Ngày 8/1/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư khen ngợi các chiến sĩ bị thương và sự tận tâm của các y sĩ, khán hộ, cứu thương với tấm lòng cảm thông và thán phục: “Các chiến sĩ đã hy sinh máu mủ để giữ gìn đất nước. Nay đã bị thương mà còn mong mỏi ra sát địch ở trận tiền. Các chiến sĩ thật xứng đáng với Tổ quốc và Tổ quốc không bao giờ quên những người con yêu quý như thế”.

Từ tháng 6/1947, từ ATK Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ chọn một ngày trong năm làm “Ngày Thương binh toàn quốc” để đồng bào có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị đó, một hội nghị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khu và tỉnh Thái Nguyên đã họp ở xã Phú Minh, huyện Đại Từ,tỉnh Thái Nguyên và nhất trí lấy ngày 27/7 hàng năm làm “Ngày Thương binh toàn quốc” và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm cán bộ, chiến sĩ và các đồng chí thương binh, bệnh binh đang điều trị tại Viện Quân Y (Hải Phòng), năm 1957

 

Trước khi Ngày Thương binh chính thức được công nhận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Thường trực Ban Tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”. Bức thư có đoạn viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang san, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh.

Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí bị ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy.

Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn một bữa ăn, để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp chiến sĩ bị thương.

Ngày 27/7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ lòng yêu mến thương binh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bày tỏ niềm tin tưởng và gương mẫu đi đầu: “Luôn luôn tin vào lòng nhường cơm sẻ áo của đồng bào ta, tôi tin chắc rằng: “Ngày Thương binh” sẽ có kết quả mỹ mãn. Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng”.

Trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khi sang thăm nước Pháp, Hồ Chí Minh đã viếng thăm và đặt vòng hoa tại Đài tưởng niệm chiến sĩ tử trận tại Biarit, mộ chiến sĩ vô danh tại Khải Hoàn Môn, mộ liệt sĩ bị phát xít Đức bắn, Người nói “Trông thấy nghĩa sĩ Pháp vì độc lập và tự do mà bị người Đức tàn sát, lại nhớ đến nghĩa sĩ Việt cũng vì độc lập, tự do mà cũng bị người khác tàn sát, khiến cho người ta thêm nỗi cảm động ngậm ngùi”.

Hằng năm, cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, vừa khẳng định công lao, đóng góp của họ, vừa khích lệ, động viên: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”.

Tháng 7/1954, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ với thắng lợi to lớn, đồng thời cũng không ít bộ đội ta thương vong, nhiều gia đình đã mất đi người con, người chồng, người cha, người thân yêu của mình. Để nhớ ơn các thương binh, gia đình liệt sĩ, theo đề nghị của Bác Hồ, Chính phủ ta và chính quyền các cấp đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề binh sĩ, gia đình liệt sĩ và công tác thương binh. Và từ năm 1955, ngày Ngày Thương binh toàn quốc 27/7 đã được đổi thành Ngày Thương binh – Liệt sĩ.

Ghi nhớ công lao của các liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đặt vòng hoa viếng tại Đài liệt sĩ Hà Nội vào các dịp lễ tết: “Ngày mai là năm mới… Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sĩ”. Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn ký và ban hành các sắc lệnh về chế độ: “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”; thành lập sở, ty thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh, đặt ra Bảng vàng danh dự, Bằng gia đình vẻ vang và truy trặng, phong tặng các danh hiệu anh hùng, huân, huy chương cho các liệt sĩ, thương binh.

Nặng lòng với thương binh và gia đình liệt sĩ, trước lúc đi xa, trong bản Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình” cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…”, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.

Đối với các liệt sĩ mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi nhận sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha, mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương… phải giúp đỡ họ có công ăn, việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói, rét”.

**

Thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt hơn 70 năm qua, công tác thương binh, liệt sĩ, người có công được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chu đáo.

Hiện nay, cả nước ta có khoảng 9 triệu đối tượng người có công, trong đã có gần 1,2 triệu liệt sĩ, trên 127 nghìn Bà mẹ Việt Nam anh hùng, hơn 2 triệu người là thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, hàng vạn người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học… Hầu hết người có công và thân nhân của họ đã được hưởng các chế độ ưu đãi của nhà nước.

Hàng năm ngân sách Nhà nước đã dành gần 30.000 tỷ đồng để thực hiện chế độ ưu đãi nhằm không ngừng chăm lo đến đời sống của người có công với cách mạng ngày càng tốt hơn. 97% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú. Đời sống người có công được ổn định và từng bước được cải thiện, góp phần to lớn ổn định chính trị, xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; góp phần ổn định chính trị – xã hội để phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới.

Tài liệu tham khảo: Hồ Chí Minh toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2011

 

 

 

TS NGUYỄN VĂN TÀI (CĐ DLHN)