Cân nhắc thành lập Tòa án chuyên trách về quyền sở hữu trí tuệ trong đề án đổi mới tổ chức Tòa án

Để bảo đảm thực thi hiệu quả các biện pháp dân sự cần cân nhắc thành lập Tòa án chuyên trách về quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), trong đó có các quyền tác giả. Bởi tính chất đặc thù của lĩnh vực SHTT, thẩm phán toà chuyên trách phải có chuyên môn và nghiệp vụ “chuyên sâu” về SHTT.

1. Thực trạng quy định pháp luật

1.1. Quy định pháp luật về hành vi truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trong môi trường internet

Dưới góc độ luật thực định, các quyền tài sản của người sáng tạo tác phẩm được pháp luật Việt Nam bảo hộ gồm: Quyền làm tác phẩm phái sinh; quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng; quyền sao chép tác phẩm; quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; quyền truyền đạt tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Các quyền này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện. Việc công nhận quyền tác giả là một quyền độc quyền có thể xem như một vũ khí hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của tác giả [1]

* Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng

Ở khía cạnh pháp lý quốc tế, quy định về quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng được ghi nhận tại Công ước Berne với nội hàm tác giả tác phẩm được “độc quyền” thực hiện hoặc cho phép người khác truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng bất kỳ phương tiện hoặc quy trình nào, hữu tuyến hoặc vô tuyến. Ở Việt Nam quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác được pháp luật SHTT quy định là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn (Khoản 4, Điều 21 Nghị định 22/2018/NĐ-CP). Như vậy, việc đưa tác phẩm này đến những người sử dụng Internet được xem là hành vi truyền đạt tác phẩm đến công chúng; bởi lẽ thông qua các trang web trực tuyến, tác phẩm có thể được truy cập trên toàn thế giới [2] . Dưới góc nhìn so sánh, quy định pháp luật Việt Nam hoàn toàn tương thích với thông lệ quốc tế, ví dụ tại Pháp thì việc phát tán một tác phẩm trên internet được Tòa án nhận định là hành vi truyền đạt tác phẩm đến công chúng; hoặc Đạo luật TEACH năm 2002 của Hoa Kỳ [Technology, Education and Copyright Harmonization Act] cho phép truyền đạt các tác phẩm đến các lớp học để học viên có thể nhận được các tác phẩm dù họ ở bất cứ đâu [3]”.  Như vậy, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng được hiển nhiên thừa nhận trong môi trường internet. Tuy nhiên, quyền tác giả có thể bị xâm phạm hiển nhiên trong môi trường internet, nơi mà khán giả không ở trước một sân khấu hay trong một nhà hát mà là trước màn hình máy tính.

* Quyền phân phối tác phẩm đến công chúng

Ở khía cạnh pháp lý quốc tế, quy định về quyền phân phối tác phẩm đến công chúng được ghi nhận tại Hiệp ước của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) về quyền tác giả (WCT) với nội dung “Tác giả của tác phẩm văn học và nghệ thuật được hưởng quyền độc quyền cho phép cung cấp tới công chúng bản gốc và bản sao tác phẩm đó thông qua việc bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu”. Ở Việt Nam, quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm được pháp luật SHTT quy định  là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm (Khoản 4, Điều 21 Nghị định 22/2018/NĐ-CP). Dưới góc nhìn so sánh, quy định pháp luật Việt Nam hoàn toàn tương thích với thông lệ quốc tế, ví dụ tại Ở Hoa Kỳ, quyền phân phối tác phẩm đến công chúng được ghi nhận trong đạo luật bản quyền (Copyright law) năm 1976 với nội dung quyền phân phối tác phẩm là một trong những quyền độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả. Quyền này cho phép chủ sở hữu quyền tác giả chuyển tải các tác phẩm đến công chúng bằng việc bán, cho thuê, cho mượn hoặc cho mướn [4]. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì tác giả được hưởng độc quyền thực hiện hoặc cho phép người thứ ba phân phối tác phẩm của mình bằng bất kỳ hình thức hoặc phương tiện nào; có nghĩa bao gồm việc truyền tải các bản sao của tác phẩm trên môi trường internet.

* Hành vi truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trong môi trường internet

 Khác với phương thức truyền thống, hành vi truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trên môi trường Internet được tiến hành nhanh chóng và phạm vi lan tỏa rộng  trên cơ sở hợp đồng thuê bao với nhà cung cấp dịch vụ Internet. Mạng Internet cho phép từ một máy chủ có thể truyền tải tới số lượng người truy cập không giới hạn và cho phép người sử dụng tiếp cận nguồn thông tin vào bất cứ lúc nào mà không bị hạn chế về mặt thời gian hay địa điểm. Trên một số trang web, có thể nhập từ khoá thông qua công cụ tìm kiếm và sau đó xuất hiện tất cả các loại tác phẩm đã sẵn sàng để được sử dụng mà không có sự giới hạn. Đặc biệt, mỗi người sử dụng Internet đều có thể thực hiện hành vi truyền tải tác phẩm tới những người khác, không giới hạn ở bất cứ yếu tố nào. Trong trường hợp này, các tác phẩm được công bố trái phép dẫn đến việc truyền tải, sao chép và thậm chí là phân phối một cách dễ dàng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ sở hữu quyền tác giả

Dưới góc độ luật thực định thì pháp luật SHTT hiện hành xác định hành vi truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trong môi trường internet được hiểu là hành vì phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; hoặc không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, việc làm này đã gây ảnh hưởng đến việc khai thác tác phẩm và gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của tác giả. Đồng thời, việc số hóa và sau đó đưa tác phẩm lên Internet bất hợp pháp cũng ảnh hưởng đến chất lượng đích thực của tác phẩm do có thể có sai sót trong việc truyền tải hình ảnh; và nội dung của tác phẩm, ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của tác phẩm, bởi theo quy định pháp luật SHTT hiện hành thì hành vi “xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm” được hiểu là hành vi tự ý sửa chữa, cắt xén tác phẩm gây phương hại danh dự và uy tín của tác giả [5].

Trên thực tế hành vi truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trong môi trường internet được diễn ra tương đối phổ biến trong thời gian qua. Điển hình, trong lĩnh vực điện ảnh thì tác phẩm điện ảnh thường được tải xuống và phân phối bất hợp pháp dưới các định dạng như Wav, MPEG, Quicktime…vvv; hoặc bị phân phối bất hợp pháp bằng cách đặt trộm máy quay cá nhân vào rạp chiếu phim và công khai trình chiếu bộ phim đó trên trang web cá nhân. Mặc dù, các bản sao như vậy thường có chất lượng thấp hơn đĩa DVD nhưng việc không mất tiền đến rạp chiếu phim hay mua một đĩa DVD chất lượng là một việc vô cùng hấp dẫn đối với những cá nhân yêu thích sử dụng Internet [6]. Theo thống kê của Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV) ước tính Việt Nam hiện nay có khoảng 150 website liên quan đến việc chia sẻ âm nhạc trên internet và hầu hết đều chưa có giấy phép; theo thống kê chưa đầy đủ của Trung âm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, khoảng 200.000 bài hát đang lưu hành trên các trang web nhạc số chưa xin phép bản quyền tác giả và quyền liên quan bao gồm cả những trang web đặt máy chủ tại nước ngoài [7].

1.2. Các biện pháp xử lý hành vi truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trong môi trường internet

* Tự bảo vệ bằng biện pháp công nghệ

Tự bảo vệ có nghĩa là tự mình tổ chức, thực hiện các biện pháp đối phó với hành vi xâm hại mà không dựa vào công lực [8]. Dưới góc độ luật thực định, Luật SHTT Việt Nam thừa nhận rằng chủ thể có quyền áp dụng công nghệ để bảo vệ tác phẩm là chủ sở hữu quyền tác giả, cụ thể: “Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền SHTT”. có thể hiểu quyền tự bảo vệ tác phẩm bằng công nghệ là quyền áp dụng công nghệ hiệu quả để bảo vệ tác phẩm nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền tác giả của chủ sở hữu [1]. Luật SHTT Việt Nam không giải thích như thế nào là một biện pháp công nghệ cũng như điều kiện áp dụng quyền tự bảo vệ tác phẩm bằng biện pháp công nghệ. Tại khoản 2, Điều 21, Nghị định 105/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 119/2010/NĐ-CP) quy định về biện pháp công nghệ như sau: (i) Đưa các thông tin chỉ dẫn về căn cứ phát sinh, Văn bằng bảo hộ, chủ sở hữu, phạm vi, thời hạn bảo hộ và các thông tin khác về quyền sở hữu trí tuệ lên sản phẩm, phương tiện dịch vụ, bản gốc và bản sao tác phẩm, bản định hình cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm thông báo rằng sản phẩm là đối tượng thuộc quyền SHTT đang được bảo hộ và khuyến cáo người khác không được xâm phạm; (ii) Sử dụng phương tiện hoặc biện pháp kỹ thuật nhằm đánh dấu, nhận biết, phân biệt, bảo vệ sản phẩm được bảo hộ. Đồng thời, pháp luật SHTT cũng xác định các hành vi xâm phạm “biện pháp công nghệ” bao gồm: (i) ; Hành vi cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu hóa biện pháp công nghệ; (ii) Hành vi giúp sức cho người trực tiếp vô hiệu hóa biện pháp công nghệ ; và quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên vấn đề đặt ra, Luật SHTT Việt Nam không nhất quán trong cách thức sử dụng thuật ngữ. Điểm a, khoản 1, Điều 98 sử dụng thuật ngữ “biện pháp công nghệ” để ghi nhận về quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu quyền tác giả. Trong khi đó,  khi ghi nhận về các hành vi xâm phạm quyền tác giả tại khoản 12, khoản 14, Điều 28, Luật SHTT Việt Nam lại sử dụng thuật ngữ “biện pháp kỹ thuật”. Đồng thời, Luật SHTT xác định việc áp dụng biện pháp công nghệ là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả để chống lại hành vi xâm phạm quyền tác giả; tuy nhiên lại không xác định hành vi xâm phạm biện pháp công nghệ là hành vi xâm phạm quyền tác giả.

* Biện pháp hành chính

Dưới góc độ luật thực định thì Luật SHTT Việt Nam đã liệt kê một danh sách các hành vi xâm phạm quyền SHTT có thể bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên, quy định này còn rất chung chung, do vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 211 Luật SHTT, việc quy định cụ thể về các hành vi xâm phạm quyền SHTT bị xử phạt hành chính được giao cho Chính phủ thực hiện. Theo đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 về quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó có liệt kê các hành vi “ xâm phạm quyền truyền đạt; và phân phối tác phẩm đến công chúng” tại Điều 15, 17  Nghị định số 131/2013/NĐ-CP; trong đó áp dụng với các hành vi xâm phạm quyền tác giả được thực hiện trên Internet. Các hình thức xử phạt bao gồm: (i) phạt tiền; và (ii) Buộc khắc phục hậu quả đó là dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử trên môi trường Internet.

Vấn đề đặt ra, mặc dù Luật SHTT quy định hai hình thức xử phạt hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả bao gồm: Cảnh cáo; và phạt tiền. Tuy nhiên, luật không quy định cụ thể cách thức áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo; đồng thời trong các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả hay trong môi trường Internet, biện pháp cảnh cáo không được đưa vào thực hiện. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người sử dụng khi “vô ý” thực hiện hành vi vi phạm nhưng lại không có cơ chế nhắc nhở nào trước khi bị xử phạt với hình thức phạt tiền. Có ý kiến nhận định: “Trong lĩnh vực SHTT những biện pháp hành chính được sử dụng thường xuyên hơn so với những biện pháp khác như dân sự. Tuy nhiên, những biện pháp hành chính này cho thấy sự kém hiệu quả trong lĩnh vực quyền tác giả trên Internet do không đáp ứng được với sự thay đổi của thị trường thông tin, nơi mà Internet trở nên ngày càng phổ biến [9]”

* Biện pháp dân sự

Biện pháp dân sự là biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục TTDS. Khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường Internet thì chủ sở hữu quyền tác giả có quyền yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp dân sự để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm. Dưới góc độ luật thực đinh, Điều 202 Luật SHTT năm 2009 quy định 5 biện pháp dân sự để xử lý các hành vi xâm phạm quyền tác giả; tuy nhiên chỉ có 2 biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành vi truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trong môi trường internet; đó là các biện pháp: (i) Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; (ii) Buộc xin lỗi, cải chính công khai; (iii) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; (iv) Buộc bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nghịch lý là các biện pháp dân sự hiếm khi được sử dụng trên thực tế tại Việt Nam, mà thay vào đó là các biện pháp hành chính lại được áp dụng thường xuyên hơn, bởi một trong các lý do đó là việc xác định mức thiệt hại đối với hành vi truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trong môi trường internet luôn là vấn đề không đơn giản và gặp nhiều trở ngại hơn.

Cụ thể, trường hợp một tác phẩm điện ảnh được lưu trữ và cho phép truy cập trái phép trên mạng Internet, có thể sử dụng công cụ kỹ thuật để thống kê được có bao nhiêu lượt người truy cập để xem và/hoặc download tác phẩm đó một cách trái phép trên một website cụ thể. Trong trường hợp này, nếu giả định việc xem trực tuyến và/hoặc tải tác phẩm đó đã được định sẵn cho mỗi lần truy cập thì có thể tính được sơ bộ thiệt hại mà chủ sở hữu quyền tác giả bị mất trên thực tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nhiều trường hợp tác phẩm được sao chép trái phép từ một website, sau đó tiếp tục được đưa lên các Website khác hoặc được các cá nhân chia sẻ với nhau. Điều này dẫn đến rất khó kiểm soát được số lượng người truy cập trái phép. Bên cạnh đó, cơ sở để đánh giá mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh đối với lĩnh vực quyền tác giả cũng đặc biệt khó khăn. Bởi lẽ, mức độ truy cập để sử dụng tác phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, tâm lý của công chúng, khả năng thẩm thấu nghệ thuật [10].

2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, Sửa đổi khoản 12, Điều 28, Luật SHTT Việt Nam như sau: “Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu hóa các biện pháp công nghệ hiệu quả do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.” Việc sửa đổi này là cần thiết nhằm thống nhất cách thức sử dụng thuật ngữ giữa điều 28 và điều 98, Luật SHTT. Đồng thời, bổ sung quy định xác định hành vi xâm phạm biện pháp công nghệ là hành vi xâm phạm quyền tác giả.

Thứ hai, Nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp dân sự

 Để bảo đảm thực thi hiệu quả các biện pháp dân sự cần cân nhắc thành lập Tòa án chuyên trách về quyền SHTT, trong đó có các quyền tác giả. Bởi tính chất đặc thù của lĩnh vực SHTT, thẩm phán toà chuyên trách phải có chuyên môn và nghiệp vụ “chuyên sâu” về SHTT. Bên cạnh đó, trong thành phần xét xử các vụ án về SHTT thì cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án và các chuyên gia về SHTT đến từ các cơ quan chuyên môn (Viện Khoa học SHTT và Cục SHTT) để bảo đảm tính nhanh chóng và tính chính xác khi ra phán quyết tranh chấp về SHTT. Đồng thời cần linh hoạt áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn khi giải quyết tranh chấp quyền tác giả trong môi trường Internet bởi vì hành vi vi phạm này nếu không được xử lý kịp thời thì tốc độ lan truyền và gây thiệt hại rất lớn. 

Thứ ba, Hoàn thiện các quy định về biện pháp hành chính. Theo đó, cần bổ sung hình phạt chính là “cảnh cáo” trong xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả và quyền liên quan đối với chủ thể có hành vi “vô ý” truyền đạt và phân phối bất hợp pháp tác phẩm trong môi trường Internet; đồng thời Luật SHTT cần đưa ra các quy định cụ thể khi áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Bởi vì, mặc dù Luật SHTT ghi nhận hình thức xử phạt cảnh cáo nhưng pháp luật SHTT lại không quy định cụ thể cách thức áp dụng hình thức xử phạt này. Việc này có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người vi phạm, khi họ vô tình thực hiện hành vi vi phạm nhưng lại không có một có chế nhắc nhở nào trước khi bị xử phạt với hình thức cao hơn. Dưới góc nhìn so sánh, các nhà lập pháp có thể tham khảo kinh nghiệm của pháp luật SHTT của Cộng hòa Pháp quy định biện pháp cảnh cáo được quy định rất rõ trong một cơ chế được gọi là “giải pháp từng bước” bao gồm ba giải pháp, trong đó hai giải pháp đầu mang tính phòng ngừa và giải pháp thứ ba có tính chất trấn áp. Đối với hai giải pháp đầu, đầu tiên, một bức thư cảnh cáo điện tử sẽ được gửi đến người có hành vi vi phạm. Kế đến, một văn bản cảnh cáo sẽ được gửi đến bằng thư có bảo đảm [9].

 

Tòa án nhân dân tp Hà Nội xét xử  vụ án tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ - Ảnh: Kim Anh 

 

1.Võ Trung Hậu (2020), “Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường Internet”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Kinh tế Luật, Đại học Quốc gia Tp. HCM

2.Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), Quyền tác giả trong không gian ảo, Nxb. Đại học quốc gia Tp. HCM,

3.Lyombe Eko, American Exceptionalism, the French Exception, Intellectual Property Law, and Peer-to-Peer File Sharing on the Internet, 10 J. MARSHALL REV. INTELL. PROP. L. 95 (2010).

4.Jerome H. Reichman & Ruth L. Okediji, When Copyright Law and Science Collide: Empowering Digitally Integrated Research Methods on a Global Scale, Minn Law Rev. 2012 Jul 1; 96(4).

5.Báo Sài Gòn Giải Phóng (2021), “Độ bìa sách: Có vi phạm luật?”, [https://www.sggp.org.vn/do-bia-sach-co-vi-pham-luat-746855.html]

6.Lê Thị Nam Giang (2014), “ Những thách thức về mặt pháp lý trong bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet”, Tài liệu hội thảo “Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam”, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh

7.Nguyễn Thị Tuyết (2010), “Chia sẻ dữ liệu trong môi trường Internet và vấn đề liên quan đến quyền tác giả”, Tạp chí Luật học, số 01,

8.Nguyễn Ngọc Điện (2017), “Quyền tự bảo vệ - điểm mới trong Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,   Số 1+2 (329+330),

9.Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), “Xử lý vi phạm quyền tác giả trên Internet bằng biện pháp hành chính ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (12), 

10.Đỗ Khắc Chiến (2014), “Về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet”, Tài liệu hội thảo Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh

 

 

LS ĐÀO ĐỨC HẠNH (Công ty Luật Việt Đông Á, Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh) Th.S TRỊNH TUẤN ANH (Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng, Hòa giải viên STAC, Cố vấn pháp lý cao cấp Công ty Luật Việt Đông Á)