Công bằng và ý nghĩa của bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính

Luật Tố tụng hành chính đã đưa công bằng trở thành nguyên tắc để giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án. Bài viết này phân tích và làm rõ khái niệm công bằng, ý nghĩa của bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính, từ đó khẳng định, bảo đảm nguyên tắc công bằng có vai trò quan trọng trong giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án ở giai đoạn hiện nay.

1. Khái niệm công bằng

Công bằng là một phạm trù khoa họcđược nghiên cứu bởi nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau bao gồm cả triết học, chính trị, pháp lý… Công bằng được coi là một hiện tượng xã hội có ý nghĩa khách quan mà con người cần hướng tới trong tư duy, nhận thức và hành động. Chính vì vậy, công bằng vừa là mục đích, vừa là chuẩn mực để đánh giá sự tồn tại, phát triển của cộng đồng, của xã hội loài người. Sự thiết lập công bằng dựa vào ý chí chủ quan, do con người (nhóm, thậm chí là giai cấp) quyết định là duy tâm, là trái quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy. Có chăng, nó chỉ được xác định ở phạm vi và quan niệm. Phạm vi và quan niệm lại phụ thuộc vào quá trình nhận thức do điều kiện kinh tế và sinh hoạt vật chất quyết định. Công bằng trong xã hội có giai cấp là trật tự giả các mâu thuẫn giai cấp và giải quyết các vấn đề xã hội.

Thứ nhất, cần phải xác định, công bằng là một khái niệm căn bản của triết học pháp quyền, triết học xã hội cũng như của đời sống chính trị, xã hội, tôn giáo và pháp luật. Trong thần học, công bằng được xem là đức hạnh căn bản thứ hai của con người, bao gồm sự thông minh, công bằng, dũng cảm và sự chừng mực. Trong đó, các đức hạnh trước luôn là điều kiện của những đức hạnh sau.
Đối với những nhà kinh điển của tư tưởng dân chủ như Pericles (495 – 429 TCN) , Solon (638 – 559 TCN) , Tocqueville (1805 – 1859) … thì dân chủ là hình thức căn bản của công bằng, và nguyên tắc bình đẳng là nguyên tắc tối cao của nó. Bình đẳng là đạo đức (Ethos) của dân chủ. Ở đây người ta phân biệt giữa công bằng khách quan là nguyên tắc tối cao để biện luận cho pháp chế, các chế định và hệ thống xã hội như pháp luật, nhà nước, kinh tế, gia đình và công bằng chủ quan là một đức hạnh (Tugend).

Trước câu hỏi công bằng là gì, thông thường được trả lời rằng: Hạt nhân của công bằng là sự bình đẳng. Từ đó, chúng ta cũng thấy rằng, bình đẳng không phải là tất cả của công bằng. Tuy nhiên, thời kỳ sau Immanuel Kant (1724 – 1804), đặc biệt trong chủ nghĩa thực chứng (Positivism), người ta thường định nghĩa ngắn gọn sự công bằng trong nguyên tắc bình đẳng, và sự bình đẳng này được thể hiện trong công thức: Đối xử như nhau đối với những cái giống nhau và không như nhau đối với những cái không giống nhau. Hans Kelsen (1881-1973) cho rằng, chỉ có nguyên tắc hình thức này mới là khoa học, còn nội dung của công bằng thì không thể là đối tượng của khoa học mà là đối tượng của chính trị. Kelsen cho rằng, chúng ta không biết và cũng sẽ không bao giờ biết nội dung của công bằng và như vậy, với ông, triết học pháp quyền hay là học thuyết về công bằng chỉ giới hạn ở hình thức.
Với Gustav Radbruch (1878 – 1949), công bằng cũng là bình đẳng, nhưng nguyên tắc bình đẳng chỉ có tính chất hình thức, bởi vậy cần phải có một nguyên tắc mang tính chất nội dung. Ông đã đưa ra khái niệm “phù hợp với mục đích” (Zweckmässigkeit), nhưng khái niệm này không bao hàm trong khái niệm công bằng mà ông đặt nó bên cạnh công bằng và “bảo đảm an toàn pháp lý”. Bảo đảm an toàn pháp lý là cần thiết bởi vì sự phù hợp với mục đích chỉ có giá trị tương đối và phải cần đến quyền lực. Quyền lực quyết định cái mà khoa học không thể xác định được. Ông cho rằng, công bằng, sự phù hợp với mục đích và an toàn pháp lý là ba mặt của khái niệm pháp quyền.

Arthur Kaufmann nhà triết học Đức Trong các tác phẩm bàn về triết học pháp quyền như “Về sự công bằng” (1993), “Nhập môn triết học pháp quyền và lý luận pháp quyền hiện đại” (1994), “Triết học pháp quyền” (1997),… tiếp thu, phát triển tư tưởng trên của Radbruch và lập luận rằng, công bằng (theo nghĩa rộng) có ba khía cạnh: Sự bình đẳng (công bằng theo nghĩa hẹp), sự phù hợp với mục đích (chính là công bằng xã hội) và sự bảo đảm an toàn pháp lý (hiệu lực của luật)[1]. Bình đẳng là khía cạnh hình thức của công bằng, sự phù hợp với mục đích là khía cạnh nội dung của công bằng và sự bảo đảm an toàn pháp lý là chức năng của công bằng. Tuy nhiên sự phân biệt ba khía cạnh hình thức, nội dung và chức năng của công bằng chỉ để đáp ứng nhu cầu hệ thống hóa các khía cạnh của công bằng. Còn sự thật thì công bằng vừa là hình thức, nội dung và chức năng. Không thể có nguyên tắc bình đẳng mà hoàn toàn không có nội dungvà sự an toàn pháp lý không chỉ tồn tại cho bản thân, mà để phục vụ cho bình đẳng và công bằng xã hội. Cho nên, sự phân chia trên không phải là sự phân biệt bản chất của công bằng, mà là sự xác định cung bậc các khía cạnh của nó[2].

Thứ hai,công bằng chính là sự bình đẳng. Theo Kaufmann, quan điểm của Aristote về công bằng mà hạt nhân của nó là sự bình đẳng (Gleichheit): Đối xử như nhau đối với những cái như nhau và đối xử khác nhau đối với những cái khác nhau, cho đến nay vẫn là xuất phát điểm của nhiều học thuyết triết học pháp quyền phương Tây. Aristote đã phân biệt hai loại công bằng, trong đó sự bình đẳng thể hiện ở hai hình thức khác nhau, đó là công bằng bù trừ (iustitia commutativa) và công bằng phân chia (iustitia distributiva). Công bằng bù trừ là công bằng giữa những cái khác nhau trong tự nhiên, nhưng như nhau trước pháp luật. Công bằng bù trừ có nghĩa là sự bình đẳng tuyệt đối giữa đưa và nhận giữa những cái được pháp luật xem như nhau, chẳng hạn như hàng hóa và giá cả, thiệt hại và bồi thường. Còn công bằng phân chia lại là sự bình đẳng tương quan trong sự đối xử với một nhóm nguời, là sự phân bổ quyền và nghĩa vụ theo các chuẩn độ xứng đáng, khả năng, nhu cầu…[3]

Công bằng phân chia là hình thức nguyên thủy của công bằng, còn công bằng bù trừ của tư luật phải được tạo lập bởi một hành vi quyền lực (chẳng hạn của cơ quan lập pháp), ví dụ như việc quy định những điều kiện để có năng lực pháp luật hay năng lực hành vi. Ở đây công thức “Suum cuique tribuere” (chia cho mỗi người cái mà họ đáng được nhận) không được phép hiểu là một công cụ để san bằng mọi thứ, không phải là mỗi người được nhận cái như nhau, mà mỗi người được nhận cái thuộc về họ, nghĩa là trao cho họ cơ hội đạt được điều tiềm ẩn trong bản thân họ.

Tuy nhiên, theo Kaufmann, nguyên tắc bình đẳng trên của Aristote trước hết chỉ mang tính thuần túy hình thức, bởi nó chỉ nói rằng những gì giống nhau phải được đối xử như nhau và những gì khác nhau phải được đối xử khác nhau. Nhưng nó không nói rằng, cái gì giống nhau và cái gì khác nhau. Mà vấn đề này lại quan trọng cho việc xây dựng các quy phạm luật. Nguyên tắc bình đẳng tương xứng trên cũng không nói rằng phải đối xử với cái giống nhau như thế nào và với cái không giống nhau như thế nào. Mà vấn đề này lại quan trọng đối với việc quy định hậu quả pháp lý. Không có gì trên thế giới này là hoàn toàn giống nhau và hoàn toàn khác nhau, mà chỉ ít nhiều giống nhau và khác nhau căn cứ vào một điểm so sánh. Sự giống nhau là sự trừu tượng hóa cái không giống nhau, và sự không giống nhau cũng lại là sự trừu tượng hóa cái giống nhau. Không có một giới hạn lôgíc giữa sự giống nhau và sự tương tự. Sự giống nhau bao giờ cũng chỉ là sự tương tự ở một góc độ nào đó[4].

Như vậy, sự giống nhau luôn luôn là một hành vi đánh đồng . Hành vi này không chỉ dựa trên nhận thức duy lý, mà trong mọi trường hợp trước hết cũng còn dựa trên quyền lực. Điều này có thể được minh họa bằng các ví dụ sau đây: Nhà lập pháp dựa trên quyền lập pháp của mình đánh đồng trẻ sơ sinh cho đến trẻ em dưới 7 tuổi, vị thành niên từ 7 đến dưới 18 tuổi và những người trưởng thành từ 18 tuổi trở đi với nhau ở góc độ năng lực hành vi. Mặc dù ở góc độ năng lực hành vi, thì một người 7 tuổi khác xa với một người 17 tuổi. Và trong mối quan hệ giữa ba nhóm này thì điều đó cũng còn là sự đối xử bất bình đẳng. Bởi ở đây một người 17 tuổi một ngày trước khi tròn 18 tuổi và một người sau sinh nhật lần thứ 18 một ngày được pháp luật đối xử không giống nhau. Tương tự như vậy, động cơ của những kẻ giết người rất khác nhau, nhưng họ đều bị đối xử giống nhau, nghĩa là đều bằng hình phạt tù chung thân (hoặc tử hình)[5].

Từ những lập luận trên Kaufmann cho rằng, nguyên tắc bình đẳng chỉ mang tính hình thức, trong nhiều trường hợp cụ thể, nguyên tắc trên có thể gây ra những bất công. Vì vậy, cần phải có thêm một nguyên tắc mang tính nội dung và như vậy bảo đảm về mặt khoa học và thực tiễn. Nguyên tắc nội dung này chính là tính mục đích của pháp quyền hay công bằng xã hội (soziale Gerechtigkeit).
Dưới góc độ pháp lý, sự công bằng được hiện diện thông qua sự “bình đẳng” mà pháp luật thường quy định. Thực tế thì bình đẳng không phải là công bằng, bình đẳng chỉ là yếu tố cơ bản hợp thành sự công bằng. Gần như pháp luật của quốc gia nào cũng quy định “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Trên lý thuyết thì bình đẳng trước pháp luật là điều kiện cơ bản để đạt đến sự công bằng. Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đều đề cao giá trị bình đẳng, công bằng, mục đích là chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về nguồn gốc xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, xu hướng tình dục, ngôn ngữ, tôn giáo, thế giới quan chính trị, nguồn gốc xuất thân, tài sản hay các điều kiện khác. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật bị vi phạm khi công quyền hành xử tùy tiện, đối xử bất công hơn đối vớimột nhóm người này so với một nhóm người khác, không dựa trên căn cứ pháp lý nào cả, mặc dù giữa hai nhóm này không có bất cứ một sự khác biệt nào về mặt địa vị pháp lý. Những đạo luật vi phạm nguyên tắc bình đẳng phải bị tuyên bố vô hiệu. Những quyết định hành chính hay phán quyết của Tòa án vi phạm nguyên tắc bình đẳng phải bị hủy bỏ. Đây chính là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt tất cả các Hiến pháp của Việt Nam và cả các quốc gia khác trên thế giới.

Công bằng xã hội là sự tiếp cận và xử lý đúng đắn không thiên lệch các mối quan hệ cơ bản giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Cần có sự phân biệt giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “bình đẳng” được định nghĩa là sự được đối xử như nhau về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa không phân biệt thành phần và địa vị xã hội, trong đó trước tiên và cơ bản nhất là bình đẳng trước pháp luật[6]. Do đó, bình đẳng xã hội thừa nhận và sự thiết lập các điều kiện, các cơ hội và các quyền ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân, các nhóm xã hội. Trái ngược với bình đẳng xã hội, bất bình đẳng xã hội là sự không bình đẳng, không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội. Bất bình đẳng xã hội không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân trong xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác. Qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đang xã hội khác nhau. Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội gắn bó mật thiết, hữu cơ với nhau. Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là một quá trình xã hội, cần thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội để từng bước tiến tới bình đẳng xã hội. Bình đẳng xã hội phải được thực hiện trên nền tảng công lý, pháp luật. Công bằng xã hội được cụ thể hóa thành các nguyên tắc ứng xử và được thể chế hóa thành các quy định pháp luật hoặc thành các quy tắc bất thành văn. Công bằng xã hội theo pháp luật là phương thức, là cơ chế để thực hiện bình đẳng xã hội thực chất. Công bằng xã hội thường được thể hiện trong ứng xử giữa các tổ chức, các nhóm xã hội. Công bằng xã hội khác với bình quân chủ nghĩa. Nếu đồng nhất công bằng xã hội với chủ nghĩa bình quân thì sẽ triệt tiêu động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế. Công bằng xã hội không phải là một khái niệm bất di bất dịch. Nó mang tính tương đối và phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tách khỏi hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà nói tới công bằng thì sẽ không hợp lý và khó trở thành hiện thực[7]. Nói cách khác, mỗi xã hội đều có chuẩn mực riêng của mình về công bằng xã hội do hoàn cảnh lịch sử của xã hội đó quy định. Trong chế độ xã hội công xã nguyên thủy, công bằng xã hội là mọi người đều tuân theo trật tự đã được cộng đồng thừa nhận, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt. Khi xuất hiện sở hữu tư nhân thì nội dung của khái niệm công bằng xã hội cũng thay đổi. Sự công bằng ở đây được xem xét trong mối quan hệ với địa vị xã hội. Theo Aristotle, công bằng là sự bình đẳng giữa những người có cùng địa vị xã hội. Còn sự bất bình đẳng giữa những người không có cùng địa vị xã hội cũng được Arisotle coi là công bằng. Quan điểm này thực tế đã trở thành quan điểm chủ đạo trong suốt lịch sử tồn tại của xã hội phân chia giai cấp. Dưới chủ nghĩa tư bản, nội dung của khái niệm công bằng cũng thay đổi. Quan hệ trao đổi hàng hóa được gọi là công bằng khi chúng thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Trong xã hội, mọi người được tuyên bố là bình đẳng trước pháp luật.

Như vậy, công bằng là một tình trạng mà trong đó tất cả mọi người trong một xã hội hay một nhóm cụ thể nào đó có địa vị, tình trạng pháp lý tương tự như nhau ở những khía cạnh nhất định, thường bao gồm các quyền dân sự, tự do ngôn luận, quyền sở hữu và tiếp cận bình đẳng đối với hàng hóa và dịch vụ xã hội. Tuy nhiên, nó cũng bao gồm các khái niệm về công bằng sức khỏe, bình đẳng kinh tế và các an toàn xã hội khác. Nó cũng bao gồm các cơ hội và nghĩa vụ ngang nhau, và do đó liên quan đến toàn bộ xã hội. Công bằng xã hội đòi hỏi có sự không phân chia ranh giới của giai cấp xã hội hay đẳng cấp (caste) được thực thi một cách hợp pháp và không có phân biệt đối xử được thúc đẩy bởi một phần không thể tách rời của bản sắc của một người. Ví dụ giới tính, chủng tộc, tuổi tác, khuynh hướng, nguồn gốc, đẳng cấp hoặc giai cấp, thu nhập hoặc tài sản, ngôn ngữ, tôn giáo, niềm tin, quan điểm, sức khỏe hoặc bị khuyết tật không nên đưa tới việc đối xử bất bình đẳng trước pháp luật và không nên làm giảm cơ hội một cách vô lý.

2. Ý nghĩa của bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính

Bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính (TTHC) có vai trò vô cùng to lớn trong mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước với công dân trong giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp hành chính, bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, đặc biệt là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Biểu hiện vai trò này được thể hiện ở những nội dung sau:

Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc công bằng trong TTHC góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật

Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, làm rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân[8]. Theo đó, Nhà nước pháp quyền thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, các quy định tại Hiến pháp là nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật pháp bởi những điều luật này sẽ được cụ thể hóa thành các bộ luật, luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, ở Nhà nước pháp quyền có sự bình đẳng (Nhà nước, tập thể và cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật), không phân biệt đối xử trong việc công nhận, thụ hưởng và phát triển các quyền con người, quyền công dân. Điều đó cho thấy, Nhà nước pháp quyền phải xác lập được cơ chế bảo vệ, bảo đảm thực hiện các quyền công dân cho người dân khi tham gia vào các quan hệ xã hội và khi có tranh chấp, đặc biệt khi phát sinh tranh chấp hành chính giữa công dân với các cơ quan nhà nước hoặc với người có thẩm quyền, thì chỉ có Tòa án mới có quyền phán xét việc tuân thủ pháp luật của các bên và hệ thống Tòa án độc lập sẽ là bảo đảm cuối cùng cho công dân có đủ khả năng và điều kiện bảo đảm quyền công dân của mình khi bị xâm hại. Do vậy, việc Nhà nước tạo các điều kiện pháp lý nhằm bảo đảm quyền công dân trong TTHC sẽ góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Thứ hai, bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính ở Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa góp phần thực hiện trách nhiệm của Nhà nước trước công dân
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện các nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội, tức là, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong phạm vi thẩm quyền của mình phải có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đẩy xã hội hay chí ít là lĩnh vực mình phụ trách đi lên, làm cho người dân được hưởng lợi[9][2], lúc này trách nhiệm của nhà nước được hiểu là nghĩa vụ mà nhà nước phải gánh vác. Theo đó, nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ công lý, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân thông qua việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước chủ động, tích cực xây dựng hệ thống pháp luật, các chương trình, kế hoạch và triển khai đồng bộ xuyên suốt các nội dung bảo đảm quyền công dân trong các chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội. Hiến pháp và pháp luật là cơ sở, căn cứ pháp lý để công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ hành chính. Hiến pháp được coi là công cụ quan trọng hàng đầu được Nhà nước sử dụng để bảo đảm quyền công dân, là “điều kiện tiên quyết cho việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân”[10].
Trong TTHC, nguyên tắc hiến định đã được Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cụ thể hóa là nguyên tắc: “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”[11], theo đó, trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ảnh hưởng bởi bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào, việc ra phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính chỉ trên cơ sở quy định của pháp luật. Mục đích của nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, đồng thời tránh sự can thiệp, tác động của các cơ quan hành pháp, lập pháp vào hoạt động xét xử của Tòa án, tránh sự “tùy tiện” từ phía Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi đưa ra các quyết định. Nhà nước bảo đảm nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế bằng các hình thức khác nhau trong đó có việc “nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dưới bất kỳ hình thức nào”[12]. Có thể nói, Nhà nước bảo đảm sự độc lập của Tòa Hành chính chính là bảo đảm quyền con người, quyền công dân, là biểu hiện của sự chịu trách nhiệm của Nhà nước trước công dân, bởi hiệu quả của công tác xét xử phụ thuộc vào chính sự độc lập này.

Thứ ba, bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính góp phần nâng cao uy tín của Nhà nước
Với trách nhiệm là chủ thể bảo đảm quyền công dân, Nhà nước có trách nhiệm ngăn chặn sự vi phạm quyền công dân từ phía các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội và cá nhân, đồng thời Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho công dân thực hiện được và tự bảo vệ các quyền công dân của mình trong các lĩnh vực. Uy tín của Nhà nước được thể hiện rõ nét trong quan hệ giữa Nhà nước và công dân, thông qua hoạt động của các cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, những hoạt động quản lý này nếu có hiệu lực, hiệu quả, có kỷ luật, kỷ cương, có công khai, minh bạch và đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn tốt sẽ tạo dựng được niềm tin của người dân đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt đối với Tòa án – là nơi cuối cùng người dân tin tưởng sẽ giải quyết đến cùng mọi tranh chấp, trong đó có tranh chấp hành chính. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Bảo đảm quyền công dân trong TTHC ngày một tốt hơn sẽ góp phần nâng cao uy tín của Nhà nước, giúp người dân ngày một tin tưởng vào công lý.

Thứ tư, bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính góp phần đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, với phương hướng xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức. Tham nhũng, quan liêu, tiêu cực là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc cố ý làm trái quy định của pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân nên đó là căn bệnh xã hội nguy hiểm cản trở sự phát triển của đất nước và làm giảm niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước. Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả các thể chế, cơ chế, chính sách (như xây dựng quy tắc ứng xử, trách nhiệm người đứng đầu, cải cách thủ tục hành chính…) nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực.Trong quan hệ hành chính phát sinh hàng ngày giữa Nhà nước (đại diện là cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền) với công dân, mọi quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của người có thẩm quyền đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, trong quan hệ này dễ xảy ra tranh chấp, khiếu kiện hành chính. Với vai trò là cơ quan giải quyết tranh chấp hành chính, trên cơ sở quy định của pháp luật, Tòa Hành chínhra phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định, hành vi hành chính bị khiếu kiện, qua đó bảo đảm quyền công dân của người dân trên thực tế. Đồng thời, việc buộc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải thực hiện bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đã góp phần tích cực nâng cao ý thức, tính chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trước người dân, góp phần đấu tranh, phòng chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực của các cán bộ, công chức trong hoạt động quản lý nhà nước.

Thứ năm, bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

Hoạt động giải quyết các vụ án hành chính được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt tại phiên tòa xét xử vụ án hành chính nếu được tiến hành tốt, khoa học, khách quan sẽ tạo ra một cơ chế tư pháp độc lập giám sát hoạt động hành pháp. Thông qua hoạt động xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, Tòa Hành chính đã tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đến người có thẩm quyền, nhằm hạn chế, khắc phục những hậu quả pháp lý phát sinh từ hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính. Từ đó, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm trong hoạt động công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền, ngăn ngừa những hành vi vi phạm quyền công dân từ phía cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền. Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu Toà án phát hiện được những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính có dấu hiệu trái với Hiến pháp, pháp luật, Tòa án có quyền kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật đó. Với nhiệm vụ này, Toà Hành chính đã giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hành chính, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ công chức, cơ quan nhà nước, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
Thứ sáu, bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hành chính là cơ chế bảo đảm quyền công dân hữu hiệu nhất.

Ở nước ta, theo quy định của pháp luật, giải quyết tranh chấp hành chính được thực hiện thông qua hai hình thức là: thủ tục khiếu nại – cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan chuyên trách và thủ tục khiếu kiện tại Tòa Hành chính. Công dân có quyền lựa chọn khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện ra Tòa Hành chính ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp mà không cần phải qua giai đoạn “tiền tố tụng” như trước đây. Xét về bản chất, TTHC là một phương thức giải quyết các khiếu kiện hành chính, được tồn tại song song với cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại.So với cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính thì TTHC có nhiều ưu điểm, hiệu quả giải quyết trực tiếp hơn, bởi những lý do sau đây: (i) Trình tự, thủ tục TTHC được quy định cụ thể, chi tiết và chặt chẽ hơn so với trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính (thủ tục đơn giản, gọn, có thể rút ngắn các giai đoạn kiểm tra, xác minh); (ii) Mặc dù các quyết định giải quyết khiếu nại hay phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật đều có tính bắt buộc thi hành đối với mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan liên quan nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, nhưng trong trường hợp người dân vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại (qua các lần khiếu nại) thì họ còn có nơi lựa chọn cuối cùng để gửi gắm niềm tin – nơi bảo vệ, bảo đảm quyền công dân của họ, đó là Tòa án; (iii) Các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan chuyên trách độc lập với thủ tục tố tụng bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án. Đây là điều không thể có được khi giải quyết các khiếu nại hành chính theo thủ tục hành chính.

3. Một số kiến nghị, đề xuất

Để nâng cao vai trò bảo đảm nguyên tắc công bằng trong TTHC cần thực hiện những giải pháp sau đây:
Một là, hoàn thiện cơ chế Tòa án xét xử độc lập, bảo đảm nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Để tăng cường tính độc lập của Thẩm phán hành chính, cần nghiên cứu áp dụng hình thức bổ nhiệm Thẩm phán không có nhiệm kỳ; sửa đổi quy định về chế độ bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động nghề nghiệp. Đối với Hội thẩm nhân dân thì cần lựa chọn những người có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý hành chính nhà nước bên cạnh các điều kiện khác.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHC theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền công dân của người khởi kiện như: Bổ sung các quy định bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hành chính; cụ thể hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (như trách nhiệm trợ giúp pháp lý); bổ sung hướng dẫn trong trường hợp người khởi kiện nộp đơn khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Toà án để bảo đảm đủ điều kiện thụ lý; cần có văn bản quy định trách nhiệm pháp lý của cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền đang lưu giữ tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án hành chính nhưng không cung cấp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận chứng cứ của người khởi kiện.

Ba là, hoàn thiện cơ chế giám sát của Toà Hành chính đối với các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thông qua hoạt động giải quyết các vụ án hành chính; cần xác định rõ trách nhiệm giám sát của Toà Hành chính trong hoạt động xét xử đối với các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền bằng cách quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền khi nhận được kiến nghị của Toà Hành chính. Ngoài ra, cũng cần xác định rõ trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong trường hợp không thực hiện kiến nghị, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức./.

Theo http://tcdcpl.moj.gov.vn

[1]Kaufmann, 1997, tr. 153 – 154.
[2]Kaufmann, 1997, tr. 153 – 154.
[3]Kaufmann, 1997, tr. 157.
[4]Kaufmann, 1997, tr. 156.
[5]Kaufmann, 1997, tr. 156.
[6]Từ điển Bách khoa Việt Nam xuất bản năm 1995.
[7]Tạp chí Cộng sản – Giá trị công bằng – Yêu cầu nội tại của chủ nghĩa xã hội, www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=51740&print=true 2/5
[8]Điều 2 Hiến pháp năm 2013
[9]Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 41.
[10]Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Sđd, tr. 39.
[11]Điều 13 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
[12]Khoản 2 Điều 13 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

TS. NGUYỄN THỊ THỦY ( Đại học Luật Hà Nội)