GIẢI PHÁP NÂNG HIỆU QUẢ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế định đặc biệt trong tố tụng hình sự của nước ta, có sự phân biệt chức năng độc lập của của các cơ quan tiến hành tố tụng. Giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ngoài quan hệ phối hợp còn có quan hệ chế ước vì nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm.

         I. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung

          1. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của BLTTHS 2003

       Điều 168 BLTTHS năm 2003 quy định về việc Viện kiểm ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được thực hiện trong thời hạn truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166 của BLTTHS.

        Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong thời hạn quy định tại điểm c khoản 2 Điều 176 của BLTTHS 2003. Trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung,Thẩm phán cũng cần nêu rõ thuộc trường hợp cụ thể nào quy định tại các điểm a,b và c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS và những vấn đề cụ thể cần điều tra bổ sung.

         Hai điều luật phân định về có thẩm quyền ra quyết định trả hồ sơ trong hai giai đoạn, tuy nhiên cả hai giai đoạn này số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung bởi căn cứ “Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát và Tòa án không thể bổ sung được” quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là tương đối nhiều. Chứng cứ trong hồ sơ một vụ án hình sự là yếu tố quyết định để kết luận hành vi phạm tội của bị can, bị cáo. Do xuất phát từ việc đánh giá chứng cứ nên trên thực tế số vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung về chứng cứ chiếm tỷ lệ chủ yếu.

        Tại phiên tòa, HĐXX cũng có thể ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung, quyết định yêu cầu điều tra bổ sung, trong giai đoạn này cần tuân thủ quy định tại Điều 199 BLTTHS 2003, Quyết định đó phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản.

       Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không được BLTTHS 2003 đặt ra trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nhưng khoản 1 Điều 246 đã đưa ra quy định: “Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới“. Vấn đề “bổ sung” chứng cứ mới này cũng được chia thành hai giai đoạn là trước khi xét xử phúc thẩm và trong khi xét xử phúc thẩm. Về bản chất thì việc Tòa án và Viện kiểm sát yêu cầu bổ sung chứng cứ và nếu yêu cầu bổ sung chứng cứ mới đó xuất phát từ phía Tòa án, thì Tòa án vẫn phải trả hồ sơ thì mới có thể thực hiện được việc bổ sung chứng cứ mới, nhưng luật không quy định việc bổ sung chứng cứ mới này phải thực hiện bằng một quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

         2. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của BLTTHS 2015

        Điều 245 BLTTHS năm 2015 quy định về việc Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung khi có các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này.

       Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử, bằng quy định tại Điều 280, BLTTHS năm 2015 đã quy định về căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án (tại khoản 1) và của Viện kiểm sát (khoản 2), thủ tục, hậu quả pháp lý và quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong vấn đề trả hồ sơ (khoản 3). Về thẩm quyền ra quyết định là Chủ tọa phiên tòa, điều đó khẳng định việc ra quyết định trả hồ sơ được tiến hành sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Cụ thể Điều 280 BLTTHS 2015 quy định về Trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau:

       Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:

      a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;

      b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;

      c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;

        d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

       Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.

       Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.

        Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.

       Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành bản cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó.

       Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

         Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là quy định nói lên sự thận trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự khi trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì những ý nghĩa đó, một trong những căn cứ quan trọng để Thẩm phán chủ tọa ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung là khi thiếu chứng cứ để chứng minh tội phạm được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015: “Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được”. Điều 85  quy định về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự : “ 1.Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;  Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;  Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;  Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;  Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt”.

         Các căn cứ khác của khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015: Điểm b trả hồ sơ khi bị cáo có hành vi phạm tội khác, điểm c trả khi có thêm đồng phạm khác, hoặc thêm tội khác, điểm d khi có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng. Căn cứ để trả hồ sơ của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa và của Viện kiểm sát là tương đối giống nhau và các căn cứ để trả hồ sơ là rất rõ ràng, do đó, ngay bản thân điều luật đã thể hiện việc hạn chế số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

        Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, Tòa án cũng có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Việc trả hồ sơ này được quyết định bởi HĐXX và quyết định tại phòng nghị án, quy định tại điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS 2015: “Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ

      Trả hồ sơ để điều tra bổ sung không được đặt ra tại cấp phúc thẩm. Giai đoạn này, chỉ quy định về việc bổ sung chứng cứ: “1. Trước khi xét xử hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự cũng có quyền bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật” (khoản 1 Điều 353). Việc bổ sung thêm chứng cứ, tài liệu, đồ vật  là nhằm mục đích làm sáng rõ vụ án để việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.

          II. Thực trạng và giải pháp

          1. Thực trạng

          Trên thực tiễn, theo Báo cáo 9 tháng đầu năm 2017 của Tòa án các cấp về vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau: “ Việc trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung về cơ bản đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật, trong số 1.985 hồ sơ Tòa án trả yêu cầu điều tra bổ sung, có 93% các trường hợp được Viện kiểm sát chấp nhận, một số ít trường hợp Viện kiểm sát không chấp nhận do còn có quan điểm khác nhau. Về cơ bản quan điểm của Tòa án và Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án là thống nhất nhận thức về áp dụng pháp luật. Số lượng các bị cáo có sự thay đổi tội danh với truy tố của Viện kiểm sát chiếm tỷ lệ không nhiều, cụ thể là có 43 trường hợp Tòa án chuyển tội danh so với đề nghị của Viện kiểm sát (chiếm tỷ lệ 0,06%). Nguyên nhân chủ yếu là do trong quá trình xét xử vụ án tại phiên tòa phát sinh các tình tiết mới nên Tòa án xem xét, thay đổi tội danh”  Từ thực tiễn đó, chúng ta thấy rằng cơ bản việc trả hồ sơ diễn ra sau khi xét hỏi và do giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định tại Điều 196 BLTTHS năm 2003 Toà án không được xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố.

           2. Giải pháp

         Trong tố tụng hình sự, quan hệ chế ước thể hiện rõ nét nhất ở hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bản chất của chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng chính là sự kiểm tra, giám sát, phát hiện các sai sót, làm sáng rõ vụ án, khắc phục thiếu sót của các cơ quan tiến hành tố tụng. Quan hệ chế ước thể hiện trong việc xác định căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nội dung cần điều tra bổ sung. Quan hệ phối hợp thể hiện trong việc thực hiện trình tự, thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung để quá trình tố tụng diễn ra được thuận lợi, nhanh chóng, kịp thời. Chỉ đồng thời thực hiện đúng đắn các quan hệ đó thì chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung mới thực sự khách quan, có hiệu quả.

      – Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra đề cao trách nhiệm, nâng cao chất lượng điều tra vụ án

     – Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng kiểm sát điều tra và nâng cao chất lượng truy tố bị cáo ra trước Tòa án đảm bảo các quy định của pháp luật hình sự. 

      – Các Thẩm phán Tòa án nhân dân nâng cao vai trò chủ động, thực hiện các quy định của pháp luật theo quy định BLTTHS năm 2015 

        Khoản 3 Điều 280 BLTTHS quy định: Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án”, quy định này đã khẳng định vị thế của Tòa án và hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

        Quy định đó cũng phù hợp với khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015 về giới hạn xét xử của Tòa án: 3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.

        Các quy định của BLTTHS năm 2015 phù hợp với Hiến pháp 2013 và tinh thần cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đồng thời cũng đã hạn chế số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử. 

        Chúng tôi thay lời kết bằng đoạn trích nội dung trả lời chất vấn rất sâu sắc của Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình tại phiên họp Quốc hội sáng ngày 18/11/2017 như sau: Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1/2018, khi chuẩn bị xét xử thì Tòa án được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Chủ tọa phiên tòa được trả một lần nữa trong quá trình xét xử. Hết 2 lần trả hồ sơ nếu như những yêu cầu điều tra bổ sung không được đáp ứng thì tòa buộc phải tuyên là không đủ yếu tố để kết tội, đây là quy định mới của luật.

         Về giải pháp cho việc này không có cách nào khác là các cơ quan điều tra, truy tố phải nâng cao chất lượng của vụ án ở giai đoạn điều tra và giai đoạn truy tố. Đối với Tòa án một mặt chúng tôi quán triệt cho các thẩm phán phải tuân thủ các quy định của pháp luật, không được trả quá nhiều lần, trong điều kiện không đủ yếu tố kết tội thì buộc phải tuyên là không đủ yếu tố kết tội”./.

Ths. NGUYỄN THỊ HẢI CHÂU (Tạp chí Tòa án nhân dân)