Giải pháp nhằm hạn chế trả lại đơn khởi kiện tranh chấp đất đai

Trong các loại đơn khởi kiện tranh chấp về dân sự, thì tranh chấp đất đai là loại tranh chấp có nhiều yếu tố phức tạp nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất, các đương sự thường khiếu nại quyết liệt, gay gắt, dai dẳng. Và đơn khởi kiện tranh chấp đất đai cũng là loại đơn chiếm tỷ lệ bị trả lại đơn nhiều nhất, với nguyên nhân chính là chưa có biên bản hòa giải đất đai cơ sở hoặc biên bản hòa giải đất đai cơ sở chưa đúng quy định của Luật Đất đai 2013.

Quy định của pháp luật về hoà giải tranh chấp đất đai:

Hoà giải là quá trình tự nguyện khi các bên tranh chấp đất đai cùng thương lượng để đạt tới một giải pháp đồng thuận với sự giúp đỡ của một người, nhóm người trung gian và trung lập.

Quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở:

Điều 202 Luật Đất đai:

Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.

Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ:

Khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện các công việc sau:

a) Thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất;

b) Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

c) Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành.

Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản, gồm có các nội dung: Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải; thành phần tham dự hòa giải; tóm tắt nội dung tranh chấp thể hiện rõ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất đang tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp (theo kết quả xác minh, tìm hiểu); ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai; những nội dung đã được các bên tranh chấp thỏa thuận, không thỏa thuận.

Biên bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên tranh chấp có mặt tại buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải và phải đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã.

Trường hợp hòa giải không thành hoặc sau khi hòa giải thành mà có ít nhất một trong các bên thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp theo

Các sai sót thường gặp liên quan đến hòa giải đất đai cơ sở

Dù pháp luật đất đai có quy định thì thực tiễn hoà giải tranh chấp đất đai ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao. Và khi người dân khởi kiện tranh chấp đất đai sẽ bị trả lại đơn khởi kiện bởi các sai sót thường gặp liên quan đến hòa giải đất đai cơ sở là:

– Tranh chấp chưa qua thủ tục hòa giải ở cơ sở theo quy định do đương sự không hiểu biết pháp luật.

– Việc hòa giải tranh chấp đất đai không thể hiện bằng biên bản hòa giải mà chỉ có một biên bản làm việc ghi nhận ý kiến của các bên đương sự và sau đó kết luận là không hòa giải được.

– Biên bản hòa giải không đảm bảo về mặt hình thức, không có chữ ký của các thành viên tham gia hòa giải, không có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn.

– Thành phần tham gia hòa giải không đúng quy định như không có sự tham gia của Ủy ban Mặt trấn Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Không có mặt của tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn. Không có đại diện của một số hộ dân cư sinh sống lâu đời tại khu vực có đất tranh chấp biết rõ về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất đối với thửa đất đó.

– Chưa thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất.

– Vi phạm thời hạn giải quyết là 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai (có trường hợp nhận đơn nhưng không giải quyết hoặc để kéo dài trong nhiều năm dẫn đến việc khiếu nại vượt cấp).

Vấn đề tồn tại trong việc tiến hành hòa giải đất đai cơ sở tại Ủy ban nhân dân cấp xã hiện nay là Ủy ban nhân dân chưa thật sự quan tâm đến các quy định của pháp luật đất đai mà chỉ dựa vào kinh nghiệm, máy móc, rập khuôn theo những cách làm cũ làm cho công tác hòa giải không đảm bảo. Đây là thủ tục bắt buộc mà pháp luật đã quy định nên khi đương sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án buộc Tòa phải trả lại đơn do vi phạm, chưa có đủ điều kiện khởi kiện.

Giải pháp hạn chế trả lại đơn khởi kiện tranh chấp đất đai do hòa giải ở cơ sở chưa đúng quy định của Luật Đất đai năm 2013

Thông báo trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện phải thể hiện rõ thiếu sót của biên bản hòa giải ở cở sở để người khởi kiện biết mà yêu cầu Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn khắc phục ngay và rút kinh nghiệm khi hòa giải các đơn khiếu nại tranh chấp đất đai tiếp theo.

Đối với trường hợp trả lại đơn khởi kiện do chưa được hòa giải cơ sở hoặc do thủ tục hòa giải chưa đảm bảo đồng thời với việc gửi văn bản yêu cầu bổ sung đơn khởi kiện cho đương sự đã đề xuất gửi một bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phải hòa giải để Ủy ban biết thực hiện đúng quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự hoàn tất thủ tục khởi kiện.

Ban hành Công văn nhấn mạnh rõ quy định về việc phải tuân theo quy định tại Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013, điều 88 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn trên địa bàn nhằm khẳng định sự cần thiết của việc hòa giải ở cơ sở với nội dung cụ thể của Điều 202 và Điều 88 nêu trên.

Trong quá trình thực hiện công tác tại các địa phương như: đi tham gia xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản thì bản thân trực tiếp trao đổi với cán bộ địa chính xã, thị trấn về những quy định này, nhất là việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cấp xã, thị trấn phải tuân thủ đúng quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43 để cán bộ địa chính tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chú trọng tổ chức hòa giải trong những vụ việc cụ thể.

Kiến nghị, đề xuất:

Để việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban cấp xã đạt hiệu quả và đi vào nề nếp, tạo điều kiện cho quá trình thụ lý và giải quyết các vụ án liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất được nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. thiết nghĩ cần đề xuất, kiến nghị:

Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6, khóa XIII, có hiệu lực từ ngày 01/7/2014 có những điểm mới, phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay và Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 hướng dẫn Luật Đất đai. Tuy nhiên, việc triển khai thi hành đòi hỏi cần phải có các văn bản hướng dẫn thực hiện, đối với Tòa án nhân dân tối cao cần có những Nghị quyết hướng dẫn cụ thể quy định của Luật Đất đai liên quan đến các tranh chấp đất đai như đã hướng dẫn đối với việc thi hành Luật Đất đai 2003 (ví dụ Nghị quyết số 01/2003, 02/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) để Tòa án nhân dân các cấp thực hiện một cách thống nhất.

Bổ sung hoặc mở rộng thêm quy chế phối hợp giữa Tòa án nhân dân cấp tỉnh với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về nội dung phối hợp để Ủy ban nhân dân cấp xã phường thực hiện đúng chức năng, đúng thời hạn và quy định trong hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở.

Trong khi chưa bổ sung quy chế, đề nghị Lãnh đạo Tòa án tỉnh có văn bản gửi Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố để yêu cầu Ủy ban nhân dân xã Phường thực hiện đúng quy định về hòa giải tranh chấp đất đai.

TRẦN THU THÚY- TAND tỉnh Bình Thuận