Mối quan hệ giữa nhóm tội tham nhũng và các tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm

Tội phạm tham nhũng gắn với việc thực hiện trách nhiệm, quyền hạn của các cá nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, các tội phạm dạng này có thể xuất hiện ở tất cả các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của nhà nước, nơi đặt ra vấn đề quản trị, sử dụng quyền lực và thực thi công vụ.

Vấn đề mang tính toàn cầu

Bảo vệ động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm là một trong những nội dung thuộc quản lý nhà nước về môi trường và bảo vệ môi trường. Trong những năm trước đây, có vẻ như vấn đề này chưa được Nhà nước và xã hội quan tâm sâu sắc. Lý do bởi nhu cầu tăng trưởng quốc gia trong giai đoạn này đã đặt các lĩnh vực trọng điểm khác như kinh tế, thương mại, dịch vụ, xây dựng lên ưu tiên cao. Một lý do khác có thể được viện dẫn đó là sự thiếu hụt thông tin, kiến thức, kinh nghiệm của bộ máy quản lý cũng như giới nghiên cứu chính sách về lĩnh vực mới mẻ này.

Tuy nhiên, cùng với xu thế phát triển của thế giới hiện đại. Môi trường và bảo vệ môi trường giờ đây không còn là vấn đề của riêng một quốc gia mà đã trở thành mệnh lệnh mang tính toàn cầu. Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói riêng và bảo vệ động vật hoang dã nói chung được thiết chặt. Nếu như trước đây, theo Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985, hành vi vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã chỉ được quy định chung với hành vi bảo vệ rừng, thì BLHS năm 1999 đã có riêng một điều luật về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quý, hiếm; đến nay, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015) đã có hai điều luật quy định về tội phạm liên quan đến động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm, đó là: Điều 234 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã) tại Chương XVIII BLHS năm 2015 (Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế), Điều 244 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm) tại Chương XIX BLHS năm 2015 (Các tội phạm về môi trường).

Điều 190 BLHS năm 1999 chỉ quy định một tội danh, với mức hình phạt tối đa chỉ đến 07 năm tù, thì nay với hai điều luật mà người phạm tội bị kết án cả hai tội, mức hình phạt tối đa có thể đến 27 năm tù. Đây là quyết tâm của Việt Nam trong thực hiện Công ước CITES mà Việt Nam đã tham gia.

Sau khi BLHS năm 2015 được Quốc hội thông qua, ngày 24/02/2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã kịp thời ban hành Thông tư số 04/2017/TT-BNNPTNT quy định Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của Công ước CITES. Đây là văn bản quan trọng để các cơ quan chức năng xử lý hành chính và các cơ quan tiến hành tố tụng tham khảo khi xác định hành vi phạm tội theo Điều 234 và Điều 244 BLHS năm 2015.

So với Điều 190 BLHS năm 1999, thì Điều 234 BLHS năm 2015 quy định chi tiết hơn, rõ ràng hơn; đã lượng hóa các trường hợp phạm tội, tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử như: Quy định trị giá và số lượng động vật hoang dã; động vật nguy cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của loài động vật; bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống cùng loại của động vật làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự.

Căn cứ theo Điều 234 BLHS năm 2015 thuộc Chương XVIII (Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế), khách thể của tội phạm này là các quan hệ về “trật tự quản lý kinh tế”, mà cụ thể là “các quy định về bảo vệ động vật hoang dã”. Rõ ràng, khách thể bị xâm phạm trực tiếp là “các quy định về bảo vệ động vật hoang dã”. “Trật tự quản lý kinh tế” cũng chỉ là cái mà người phạm tội thông qua nó để xâm phạm đến một quan hệ cụ thể hơn, đó là “các quy định về bảo vệ động vật hoang dã”. Tuy nhiên, theo một hướng tiếp cận khác, khái niệm “trật tự quản lý kinh tế” phần nào đã minh chứng mối quan hệ giữa tội phạm thuộc lĩnh vực này với việc nhân danh quyền lực công để thực hiện trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ, công chức.
Tóm lại, bảo vệ động vật hoang dã, quý, hiếm thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Điều đó đồng nghĩa với sự tồn tại của các quy định của pháp luật có liên quan (1) và các cơ quan chức năng, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền trong lĩnh vực này (2). Ví dụ, khi tra cứu Chương IV Nghị định 06/2019 về quản lý thực vật rựng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, việc tổ chức thực hiện các quy định của Nghị định thuộc trách nhiệm, quyền hạn của rất nhiều cơ quan như: Cơ quan kiểm lâm các cấp; cơ quan quản lý chuyên ngành thủy sản các cấp; cơ quan công an; bộ đội biên phòng; cơ quan Thuế; quản lý thị trường; thú y; kiểm dịch động vật… Việc tồn tại các cơ quan này đồng nghĩa với sự xuất hiện của quyền lực quản lý và tất yếu kéo theo nguy cơ của tệ nạn quan liêu, tham nhũng.

Dấu hiệu trở thành tội phạm

Xét về hành vi khách quan, theo Điều 234 BLHS năm 2015, vi phạm quy định bảo vệ động vật hoang dã, quý, hiếm có thể được xảy ra dưới các dạng hành vi như săn bắt, giết, nuôi, nhốt, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm thuộc Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước CITES hoặc tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật hoang dã thuộc Danh mục nêu trên. Quy định về dạng hành vi khách quan trên cho thấy các hoạt động liên quan đến động vật hoang dã, quý, hiếm không hoàn toàn bị Nhà nước cấm (thậm chí bao gồm cả các hành động có ảnh hưởng xấu đến nòi giống như săn bắt, giết, nhốt). Ngược lại, chúng hoàn toàn được cho phép nhưng trên cơ sở tuân thủ những điều kiện, nguyên tắc do pháp luật quy định: Ví dụ, theo Điều 5 Nghị định 06/2019 NĐCP đã nêu ở trên:

Hoạt động săn, bắn, bắt, khai thác, nuôi, nhốt, giết, tàng trữ, chế biến, vận chuyển, buôn bán các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm không được ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại, sinh trưởng, phát triển của loài đó trong tự nhiên (khoản 1)

Mọi hoạt động săn, bắn, bắt, khai thác, nuôi, nhốt, giết, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, chế biến, quảng cáo, trưng bày, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập mẫu vật các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phải được quản lý, đảm bảo nguồn gốc hợp pháp (khoản 2).

Từ hai quy định trên có thể suy luận ngắn gọn rằng những hành vi trên nếu ảnh hưởng đến sự tồn tại, sinh trưởng, phát triển của động vật hoang dã, quý, hiếm, hoặc không được cấp phép, không được thực hiện theo nguyên tắc quản lý và không đảm bảo nguồn gốc hợp pháp, thì sẽ trở thành tội phạm. Trong trường hợp này, biểu hiện của tham nhũng có thể được thể hiện dưới các dạng hành vi như nhận hối lộ để cấp phép bất hợp pháp cho việc săn, bắt động vật hoang dã, quý, hiếm; nhận hối lộ cho phép xuất nhập khẩu bất hợp pháp; tham nhũng dẫn đến thiếu trách nhiệm trong công tác thanh tra, kiểm tra nguồn gốc…

Các chủ thể có nhu cầu nuôi trồng động vật hoang dã nguy cấp quý, hiếm cũng được đặt trong những điều kiện nhất định dù với mục đích thương mại hay phi thương mại. Ví dụ, đối với mục tiêu phi thương mại:

– Có dự án, đề tài nghiên cứu khoa học được phê duyệt và có phương án nuôi, trồng theo các Mẫu quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.

– Cơ sở nuôi, trồng phù hợp với đặc tính sinh trưởng của loài được nuôi, trồng; đảm bảo an toàn cho người và vật nuôi, trồng, vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh.

– Đảm bảo nguồn giống hợp pháp: Khai thác hợp pháp; mẫu vật sau xử lý tịch thu theo quy định của pháp luật; nhập khẩu hợp pháp hoặc mẫu vật từ cơ sở nuôi, trồng hợp pháp khác.

– Trong quá trình nuôi, trồng phải lập sổ theo dõi nuôi, trồng theo Mẫu quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này; định kỳ báo cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản, về lâm nghiệp cấp tỉnh.

Đối với mục tiêu thương mại:

– Đảm bảo nguồn giống hợp pháp: Khai thác hợp pháp; mẫu vật sau xử lý tịch thu theo quy định của pháp luật; nhập khẩu hợp pháp hoặc mẫu vật từ cơ sở nuôi hợp pháp khác;

– Chuồng, trại được xây dựng phù hợp với đặc tính của loài nuôi; bảo đảm các điều kiện an toàn cho người và vật nuôi, vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh;

– Loài nuôi là loài được Cơ quan khoa học CITES Việt Nam công bố có khả năng sinh sản liên tiếp qua nhiều thế hệ trong môi trường có kiểm soát; và được Cơ quan khoa học CITES Việt Nam xác nhận bằng văn bản việc nuôi sinh sản, sinh trưởng không làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của loài nuôi và các loài có liên quan trong tự nhiên;

– Có phương án nuôi theo Mẫu quy định trong Nghị định.

Ngà voi buôn lậu bị bắt giữ

Nguy cơ xuất hiện tham nhũng

Những rào cản mang tính chất điều kiện đã nêu ở trên đều có nguy cơ xuất hiện tội phạm tham nhũng. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn dẫn đến hành vi phạm quản lý nhà nước có thể xảy ra từ các quy tắc từ quy trình, thủ tục (có dự án, đề tài nghiên cứu khoa học được phê duyệt; được Cơ quan khoa học CITES Việt Nam công bố có khả năng sinh sản liên tiếp qua nhiều thế hệ trong môi trường có kiểm soát) đến điều kiện kỹ thuật chuyên môn (lập sổ theo dõi nuôi, trồng theo Mẫu quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo). Đặc biệt, một số điều kiện mang tính định tính cao càng dễ có nguy cơ tham nhũng. Ví dụ: Cơ sở nuôi, trồng phù hợp với đặc tính sinh trưởng của loài được nuôi, trồng; đảm bảo an toàn cho người và vật nuôi, trồng, vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh. Những tiêu chí như “phù hợp đặc tính sinh trưởng” hay “đảm bảo an toàn cho người và vật nuôi…” đều hết sức chung chung, không rõ ràng, dễ tạo ra những kẽ hở kéo theo nguy cơ tiêu cực từ cơ quan, người có thẩm quyền quản lý.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải đề cập thêm là yếu tố địa bàn cũng đặt ra những nguy cơ khách quan dẫn đến tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực này. Các khu vực diễn ra hoạt động liên quan đến động vật hoang dã, quý, hiếm thường là những địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Quản lý hành chính ở đây thường hết sức khó khăn. Các cơ chế kiểm tra, giám sát tính liêm chính trong hoạt động quản lý không được siết chặt trong khi những vấn đề bất cập dễ xảy ra tiêu cực lại có chất phức tạp. Vì lĩnh vực này hứa hẹn khả năng thu lợi nhuận cao, đối tượng tham gia có quy mô tổ chức và nguồn lực lớn, sẵn sàng làm tha hóa bộ máy chính quyền.

Kết luận

Quản lý động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm về cơ bản mang tính chất như một hoạt động khai thác, kinh doanh có điều kiện được Nhà nước cho phép trong sự kiểm tra, giám sát. Kiểm soát hoạt động này được thực hiện thông qua các bộ tiêu chí về trình tự thủ tục, kỹ thuật mà chủ thể khai thác, kinh doanh phải tuân thủ và đặt dưới các cơ chế thanh tra kiểm tra, trong đó quan trọng nhất là kiểm tra chuyên ngành. Mối quan hệ với vấn đề thực thi quyền hạn, chức vụ, thể hiện thông qua sự ràng buộc với các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền ở khía cạnh tiêu chuẩn, tiêu chí, điều kiện tổ chức hoạt động. Đây chính là yếu tố mấu chốt minh chứng mối quan hệ giữa các tội vi phạm quy định bảo vệ động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm và nhóm tội tham nhũng. Rõ ràng, một lĩnh vực hứa hẹn sinh lời cao nhưng đồng thời được Nhà nước kiểm soát gắt gao sẽ chứa đựng nguy cơ tham nhũng tiềm tàng. Do vậy, hệ thống các cơ quan quản lý và kiểm tra chuyên ngành trong lĩnh vực này như hải quan, quản lý thị trường, công an, bộ đội biên phòng cần được đặt dưới những cơ chế kiểm tra, giám sát hành chính một cách thường xuyên và chặt chẽ.

TS. ĐINH LƯƠNG MINH ANH