MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

BLHS 2015 ra đời với nhiều sửa đổi, bổ sung mới quan trọng được đánh giá là bước tiến bộ đáng kể trong lịch sử lập pháp Việt Nam. Với việc lần đầu tiên đưa pháp nhân thương mại (PNTM) trở thành chủ thể của tội phạm, BLHS 2015 đã khẳng định chính sách nhất quán của Đảng và nhà nước ta trong công cuộc phòng chống tội phạm, đó là đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đảm bảo công bằng xã hội, công lý được thực thi và đảm bảo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện.

1.Quy định về trách nhiệm hình sự đối với PNTM trong phần chung BLHS năm 2015

Nghiên cứu các quy định trong phần chung của BLHS năm 2015, chúng tôi thấy:

Thứ nhất, các quy định đối với PNTM phạm tội được ghi nhận chung với chủ thể của tội phạm là thể nhân. Đây là các quy định điều chỉnh các vấn đề trách nhiệm hình sự chung cho cả hai loại chủ thể này. Tuy được quy định trong cùng một điều luật, nhưng các quy định liên quan đến thể nhân và PNTM lại được quy định trong các khoản khác nhau; hay nói cách khác, quy định liên quan đến PNTM phạm tội được quy định trong khoản riêng của các điều luật.

Ở đây, về mặt lý luận, có một vấn đề được đặt ra là, liệu các điều luật phần chung BLHS không đề cập đến PNTM thì có được áp dụng đối với chủ thể này hay không. Ví dụ các quy định về chuẩn bị phạm tội (Điều 14), phạm tội chưa đạt (Điều 15), các quy định về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (Chương IV); các quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 27, Điều 28)… Theo chúng tôi, các điều luật đó là quy định phần chung, tức là cơ sở chung cho việc quy định trách nhiệm hình sự cho mọi trường hợp; cho nên, nếu không trái với bản chất của chủ thể là PNTM phạm tội thì vẫn áp dụng đối với chủ thể đó.

Thứ hai, các quy định về PNTM phạm tội được quy định trong một điều riêng (Điều 33. Các hình phạt đối với PNTM phạm tội) hoặc chương riêng đối với PNTM phạm tội (Chương XI. Những quy định đối với PNTM phạm tội). Trong chương này gồm các quy định mang tính đặc thù, chỉ áp dụng riêng đối với PNTM phạm tội mà không phải đối với tất cả các chủ thể của tội phạm. Cụ thể:

Về hình phạt áp dụng đối với PNTM phạm tội được quy định tại Điều 33 BLHS 2015. Theo đó, khác với các hình phạt được áp dụng đối với thể nhân, các hình phạt áp dụng đối với các PNTM được quy định đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tiễn và đảm bảo phát huy được hiệu quả trong thực tiễn áp dụng. Một PNTM phạm một tội nào đó được quy định trong BLHS 2015 thì chỉ bị áp dụng một hình phạt chính, nhưng có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Các hình phạt áp dụng đối với PNTM phạm tội được quy định chi tiết tại các điều từ Điều 77 đến Điều 81 BLHS 2015.

Một trong những đặc điểm nổi bật trong quy định hình phạt đối với PNTM là các nhà làm luật “đánh mạnh” vào mặt kinh tế của pháp nhân, xuất phát từ mục đích chính của PNTM là hoạt động vì lợi nhuận, đây là mặt trực tiếp và có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự tồn tại và phát triển của PNTM. Đồng thời, những loại hình phạt mà BLHS năm 2015 quy định đối với PNTM, đã và đang được quy định là những hình thức xử lý vi phạm đối với PNTM trong những văn bản pháp luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012… và nhiều văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, những hình thức xử lý này chưa đủ sức răn đe, giáo dục cho nên chưa mang lại hiểu quả đấu tranh phòng ngừa cao đối với pháp nhân có hành vi vi phạm. Chính vì thế, dưới góc độ là những loại hình phạt do BLHS quy định, mang tính nghiêm khắc, cưỡng chế nhà nước cao nhất thì sẽ góp phần quan trọng vào quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm do pháp nhân gây ra một cách có hiệu quả.

Về phạm vi chịu TNHS của PNTM được quy định tại Điều 76 BLHS 2015 như sau:

“Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật này.

Đây là những tội mà thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm thời gian qua đã diễn ra rất phức tạp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và thiệt hại đối với xã hội, với nhân dân do pháp nhân gây ra là rất lớn. Đồng thời, phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ta là thành viên, như: Công ước TOC, Công ước chống tham nhũng (Công ước UNCAC), Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, các điều ước quốc tế về chống khủng bố và chống tài trợ khủng bố,…Việc quy định phạm vi TNHS của PNTM dựa trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm và phổ biến của những hành vi vi phạm xảy ra trong thực tiễn để quy định trong BLHS nhằm xử lý hành vi phạm tội thật phù hợp.

Điểm chung trong 33 tội danh áp dụng đối với PNTM là quy định song song giữa TNHS của cá nhân con người phạm tội với TNHS của PNTM. Ví dụ, Tội hủy hoại rừng, theo đó,  tại các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều 243 quy định TNHS của cá nhân phạm tội khi có một trong các hành vi vi phạm mà BLHS quy định. Riêng khoản 5 Điều này quy định TNHS của PNTM, dựa trên những dấu hiệu pháp lý hành vi và hậu quả được quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều 243 BLHS năm 2015.

Khoản 2 Điều 2 BLHS 2015 cũng nhấn mạnh rõ: “2. Chỉ PNTM nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu TNHS.

Theo đó thì, PNTM chỉ phải chịu TNHS đối với 33 tội danh quy định tại Điều 76 BLHS. Các tội phạm này cũng tương đồng với lĩnh vực hoạt động chủ yếu của PNTM và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về tính phổ biến và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Điều 75 BLHS 2015 quy định về điều kiện chịu TNHS đối với PNTM phạm tội, cụ thể:

“1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;

b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân
thương mại;

c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;

d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.

Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.”

Đây được xem là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xem xét, đánh giá để áp dụng chế tài hình sự đối với PNTM. Bởi lẽ, nếu không được xem xét 1 cách cụ thể và đầy đủ các điều kiện nói trên thì có thể dẫn đến trường hợp kết án oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của PNTM cũng như các cá nhân có liên quan.

Khoản 2 Điều 75 BLHS 2015 cũng quy định rõ, việc PNTM chịu TNHS không loại trừ TNHS của cá nhân. Do vậy, trong quá trình áp dụng, giải quyết vụ án hình sự về tội có quy định TNHS của pháp nhân, trước hết, cần làm rõ các tình tiết, hành vi phạm tội và trách nhiệm của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì phải xử lý hình sự đồng thời cả cá nhân và pháp nhân về tội phạm mà họ đã thực hiện. Trường hợp phát hiện tội phạm xảy ra, mà ban đầu mới xác định được trách nhiệm của pháp nhân, thì khởi tố vụ án, khởi tố pháp nhân phạm tội, sau đó tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý hình sự cá nhân liên quan – người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bảo đảm việc xử lý TNHS đối với cá nhân, pháp nhân được toàn diện, triệt để, tránh bỏ lọt tội phạm và cá nhân, pháp nhân phạm tội.

Về các quy định khác đối với chủ thể của tội phạm là PNTM trong các chế định khác của phần chung BLHS 2015

Điều 74 BLHS 2015 thì: “ pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.

Điều đó có nghĩa là, khi áp dụng TNHS đối với PNTM, thì phải tuân thủ các quy định của Chương XI. Những quy định đối với PNTM phạm tội và những quy định khác thuộc Phần thứ nhất BLHS 2015. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định tại Chương XI và Phần những quy định chung của BLHS 2015, thì ưu tiên áp dụng các quy định tại Chương XI này.

2. Quy định về TNHS của pháp nhân thương mại trong phần các tội phạm của BLHS năm 2015

Trong BLHS 2015, lần đầu tiên pháp nhân thương mại được đưa vào các thiết chế hình sự với tư cách là chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù riêng của loại chủ thể này, nên việc xác định phạm vi các tội phạm mà chủ thể này thực hiện có những đặc trưng riêng. Theo đó, chủ thể này không thể là chủ thể của tội phạm về chức vụ hay nhóm tội phạm về xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người được…

Theo quy định tại Điều 76 BLHS 2015 thì pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về 33 tội phạm sau đây:

– Một số tội xâm phạm trật tự quả lý kinh tế: Điều 188 (tội buôn lậu), Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới), Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm), Điều191 (tội tàng chữ, vận chuyển hàng cấm), Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả), Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm), Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh), Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi), Điều 196 (tội đầu cơ), Điều 200 (tội trốn thuế), Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước), Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán), Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán), Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán), Điều 213 (tội gian lân trong kinh doanh bảo hiểm), Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động), Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh), Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan), Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp), Điều 227 (tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên), Điều 232 (tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản), Điều 234 (tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã);

– Một số tội phạm về môi trường: Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường), Điều 237 (tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường), Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông),Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam), Điều 242 (tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản), Điều 243 (tội hủy hoại rừng), Điều 244 (tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm), Điều 245 (tội vi phạmquy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên), Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại),

– Một số tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: Điều 300 (tội tài trợ khủng bố) và Điều 324 (tội rửa tiền).

Như vậy, theo quy định của BLHS, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu trong hai lĩnh vực: tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về môi trường. Ngoài ra, pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiêm hình sự về tội tài trợ khủng bố và tội rửa tiền. Việc quy định phạm vi trách nhiệm hình sự như vậy đối với pháp nhân thương mại là hợp lý từ góc độ thực tiễn tình hình vi phạm và các công ước quốc tế về chống tửa tiền và chống khủng bố mà Việt Nam tham gia; đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm hiện nay ở nước ta.

Trong BLHS 2015 quy định 33 tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong các điều luật cụ thể nêu ở phần trên, thì quy định đối với pháp nhân thương mại thường được thiết kế tại khoản cuối cùng của điều luật thành một khoản tách bạch so với các quy định đối với cá nhân phạm tội. Và do các dấu hiệu cấu thành tội phạm đối với cá nhân và pháp nhân thương mại giống nhau, cho nên trong các điều luật này cũng chủ yếu quy định chế tài đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

Phân tích chế tài các điều luật quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, chúng tôi có một số nhận xét như sau:

 – Một là, phạt tiền là hình phạt chính được quy định trong 100% chế tài. Tội phạm càng nghiêm trọng thì mức phạt tiền càng tăng;

 – Hai là, trong nhiều chế tài, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn cũng được quy định là hình phạt chính. Còn đình chỉ hoạt động có thời hạn hầu như không được quy định;

  – Ba là, các hình phạt bổ sung cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn được quy định hầu như  trong 100% chế tài. Phạt tiền cũng được quy định là hình phạt bổ sung trong nhiều trường hợp nếu hình phạt chính là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn được áp dụng…

 

KIM QUỲNH