Sự liêm chính, vô tư, khách quan trong chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán

Thẩm phán không phải là cán bộ, công chức bình thường; mà là người có hoạt động nghề nghiệp đặc thù để bảo vệ công lý. Vì vậy, Thẩm phán phải chịu nhiều những hạn chế nghề nghiệp cũng như cuộc sống; địa vị chính trị, xã hội, pháp lý của Thẩm phán khác hơn; có tiêu chuẩn bổ nhiệm, trách nhiệm nghề nghiệp cao hơn, trong đó có yêu cầu cao về sự liêm chính, vô tư, khách quan trong chuẩn mực đạo đức của họ.
  1. 1.Cơ sở và sự cần thiết của việc quy định sự liêm chính, vô tư, khách quan của Thẩm phán

1.1. Cơ sở chính trị – pháp lý

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Như vậy, Hiến pháp đã quy định rõ bằng việc thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân có vị trí là cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quyền tư pháp, chức năng xét xử của Tòa án nhân dân thể hiện ở chỗ:

-Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội; xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực Nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án;

– Quyền con người là quyền thiêng liêng, quan trọng nhất đối với con người, do Hiếp pháp quy định và thực hiện trực tiếp mà không cần thông qua luật định. Vì vậy, Tòa án nhân dân là cơ quan phán quyết duy nhất phán quyết những vấn đề về quyền con người, về tình trạng công dân (như tuyên bố một người đã chết, xác định cha, mẹ cho con, tuyên bố tước, hạn chế tự do, áp dụng các hình phạt liên quan đến quyền con người…).

Bằng các quy định trên, về thực chất có thể hiểu tư pháp chính là xét xử; thực hiện chức năng xét xử chính là thực hiện quyền tư pháp. Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.

Để thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp cũng quy định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân một cách cụ thể, rõ ràng. Theo khoản 3 Điều 102 Hiến pháp 2013, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hiến pháp đã nhấn mạnh việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân là những nhiệm vụ đầu tiên của Tòa án nhân dân; sau đó mới là nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đó là nhiệm vụ đặc trưng thể hiện cao nhất, tập trung nhất đối với cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án phải là nơi mà mọi con người, mọi công dân tìm đến lẽ phải, tìm đến sự thật, đến sự công bằng. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm, người dân tìm đến Tòa án như là tìm đến Công lý.

Vì vậy, có thể nói, Tòa án là biểu tượng của Công lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý. Niềm tin của nhân dân vào Tòa án chính là niềm tin vào Công lý.

1.2. Đặc điểm nghề nghiệp của Thẩm phán

Thẩm phán là nhân vật trung tâm trong hệ thống Tòa án, đảm nhận nhiệm vụ xét xử các vụ án, giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ hiến định. Khác với công chức khác trong bộ máy nhà nước, nghề Thẩm phán có những đặc điểm riêng biệt:

Thứ nhất, Thẩm phán luôn luôn tiếp xúc trực tiếp với con người; kết quả công việc của Thẩm phán ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh chính trị cũng như tự nhiên của mỗi con người, ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng. Nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được hiến định cũng chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Thẩm phán.

– Thứ hai, Thẩm phán là người áp dụng pháp luật. Trên cơ sở xác định sự kiện pháp lý, sự thật khách quan của vụ án, Thẩm phán áp dụng quy định của pháp luật để phán quyết về vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý và phán quyết đó làm phát sinh hậu quả đối với con người, đối với xã hội. Mọi hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán đều được thực hiện đúng với trình tự, thủ tục do pháp luật quy định; chịu sự tác động trực tiếp của pháp luật. Sự thật, pháp luật, công bằng, công lý luôn là những yếu tố song hành cùng Thẩm phán trong công việc cũng như cuộc sống thường nhật.

-Thứ ba, là người được giao thực hiện quyền lực nhà nước, phán quyết liên quan đến sinh mệnh chính trị, tự nhiên của con người, đến lợi ích xã hội, cộng đồng… cho nên hoạt động của Thẩm phán luôn chịu sự kiểm soát của pháp luật; sự giám sát của cơ quan lập pháp, hành pháp; sự giám sát của dư luận xã hội và của nhân dân theo quy định của pháp luật.

Ngoài sự giám sát từ bên ngoài, Thẩm phán còn phải chịu sự giám sát trong nội bộ Tòa án. Cho nên, cùng với pháp luật, các quy chế hành nghề, quy phạm đạo đức của Thẩm phán là những công cụ cho việc giám sát, kiểm soát bên trong hệ thống Tòa án nhân dân; đó cũng là những tiêu chí mà Thẩm phán căn cứ vào để sống và làm việc; các cơ quan có thẩm quyền và công chúng thực hiện việc kiểm soát, giám sát.

1.3. Cơ sở thực tiễn

Những năm qua, mặc dù chúng ta chưa có Bộ Quy tắc đạo đức Thẩm phán, nhưng về cơ bản, đội ngũ Thẩm phán của Việt Nam đã thực hiện các hoạt động nghề nghiệp và ứng xử phù hợp, góp phần xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp trong xã hội thuộc thẩm quyền, bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Tuy nhiên, do chưa có một văn bản chính thức mang tính ràng buộc về các quy chuẩn đạo đức, các quy tắc ứng xử nghề nghiệp, dẫn đến tình trạng là:

– Chưa có nhận thức thống nhất về các chuẩn mực về sự liêm chính, sự vô tư, khách quan mà Thẩm phán cần có;

– Chưa có nhận thức đầy đủ về quy tắc ứng xử của Thẩm phán trong công tác cũng như cuộc sống thường nhật để thể hiện và bảo đảm sự liêm chính, vô tư, khách quan của Thẩm phán;

– Thực tiễn cũng cho thấy, còn có những cán bộ Tòa án nói chung, Thẩm phán nói riêng hành xử không phù hợp với đạo đức cần có, thậm chí, có những vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng, phạm tội. Trong hoạt động xét xử, một số Thẩm phán vẫn còn thiếu bản lĩnh, bị tác động từ bên ngoài, thiếu vô tư, khách quan… dẫn đến ra những phán quyết oan, sai cho bị cáo, cho đương sự. Thực tế đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử, uy tín của Tòa án các cấp, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng đối với Công lý, đối với hệ thống tư pháp nước ta.

1.4. Chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm một số nước về đảm bảo sự liêm chính, vô tư, khách quan của Thẩm phán

Sự liêm chính, vô tư, khách quan là một trong những nội dung quan trọng đảm bảo hiệu quả hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán; đảm bảo niềm tin của công chúng vào hệ thống Tòa án, vào Công lý. Vì vậy, cộng đồng tư pháp các quốc gia trên thế giới và Việt Nam đều coi sự liêm chính, vô tư, khách quan là một trong những tiêu chí hàng đầu của quy tắc đạo đức Thẩm phán.

1.4.1. Sự liêm chính, vô tư, khách quan luôn là nội dung, yêu cầu cơ bản của các văn kiện quốc tế về Thẩm phán và nghề nghiệp Thẩm phán.

Quy tắc Đạo đức Tư pháp Bangalore là văn kiện mang tính toàn cầu thể hiện khá đầy đủ các quy tắc đạo đức Thẩm phán. Theo Bộ quy tắc này, các nguyên tắc được xây dựng nhằm mục đích thiết lập các chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán. Chúng được xây dựng như kim chỉ nam cho các Thẩm phán và để tạo cho ngành tư pháp một khung điều chỉnh đạo đức tư pháp.

Quy tắc này xác định tính vô tư có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của Thẩm phán; đó không chỉ là yêu cầu áp dụng đối với các quyết định được đưa ra, mà còn là yêu cầu áp dụng với cả quá trình ra quyết định (Nguyên  tắc 2). Cũng theo Quy tắc này, sự chính trực, đúng mực, không sử dụng vị trí, nghề nghiệp để mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân và gia đình cũng là điều cốt yếu để thực hiện tốt các nhiệm vụ của một Thẩm phán (Nguyên tắc 3, 4).

Qui chế toàn cầu của Thẩm phán (Hiến chương của thẩm phán) được Hội đồng trung ương của Hiệp hội Thẩm phán quốc tế thông qua tại Hội nghị ngày 17 tháng Mười một năm 1999 tại Đài Bắc quy định: “Thẩm phán phải và cần tỏ ra vô tư, khách quan trong khi thực hiện hoạt động tại Tòa án. Anh ta phải hoàn thành nhiệm vụ với sự đúng mực và phẩm cách đối với công việc và đối với mọi người liên quan” (Điều 5)…

1.4.2. Kinh nghiệm của một số nước

Trên cơ sở các chuẩn mực chung, có thể nói, hầu như các quốc gia trên thế giới đều ban hành các bộ quy tắc đạo đức Thẩm phán phù hợp với chuẩn mực chung; đồng thời, thể hiện các điều kiện và truyền thống đạo đức riêng của mỗi nước về tính liêm chính, sự vô tư, khách quan của Thẩm phán.

– Tại Liên bang Nga: Bộ Quy tắc đạo đức Thẩm phán của Liên bang Nga[1]quy định trong thực hiện công vụ, Thẩm phán phải công bằng, vô tư, khách quan, không định kiến trong xét xử; Thẩm phán nắm quyền quản lý, lãnh đạo phải tạo mọi điều kiện cần thiết để Thẩm phán thực thi công vụ (Điều 4). Thẩm phán phải tránh những quan hệ tiền bạc, kinh doanh trong các hoạt động ngoài công vụ có thể gây nghi ngờ về sự chính trực hoặc ảnh hưởng đến việc thực thi nghề nghiệp của mình (Điều 7).

– Tại Canada: Năm 1971, Nghị viện Canada thành lập Hội đồng Thẩm phán. Hội đồng này có trách nhiệm điều tra và giải quyết các khiếu nại của người dân đối với ứng xử tư pháp không phù hợp của các Thẩm phán. Hội đồng đã công bố “Nguyên tắc đạo đức Thẩm phán”. Trong đó quy định nguyên tắc về tính liêm khiết của Thẩm phán: Thẩm phán luôn duy trì cách ứng xử liêm khiết nhằm củng cố niềm tin của công chúng đối với nghề Thẩm phán; và vì vậy, Thẩm phán phải chấp nhận một số hạn chế trong cuộc sống của mình (Nguyên tắc 2).

Nguyên tắc khách quan, không thiên vị đòi hỏi Thẩm phán trong hoạt động công vụ hoặc ngoài công vụ duy trì và tăng cường niềm tin của công chúng vào sự vô tư, khách quan; Thẩm phán phải từ chối xét xử các vụ án có xung đột về lợi ích; từ chối tham gia các hoạt động, làm những công việc có nguy cơ ảnh hưởng đến tính vô tư, khách quan hoặc phương hại đến hoạt động tư pháp (Nguyên tắc 5)…

– Tại Hoa kỳ: Bộ Quy tắc đạo đức Thẩm phán Hoa kỳ[2]quy định Thẩm phán phải duy trì tính liêm chính, sự khách quan không thiên vị trong xét xử cũng như trong các mối quan hệ khác; phải từ chối xét xử các vụ án có xung đột lợi ích; không được tham gia các hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến sự độc lập, vô tư; không được nhận quà tặng; nhận thù lao hợp lý đối với các hoạt động khác…

– Tại Trung Quốc: Bộ Quy tắc ứng xử của Thẩm phán[3] có 50 quy định chuẩn hóa ứng xử của Thẩm phán. Trong đó có nguyên tắc về tính khách quan (tuân thủ pháp luật, độc lập, không thiên vị, không phân biệt đối xử…); về tính liêm chính (giữ gìn sự trong sạch, trung thực khi thực thi nhiệm vụ, kiên định trước những cám dỗ vật chất và tinh thần do địa vị tố tụng mang lại, chịu sự hạn chế về các hoạt động nghề nghiệp…); về giới hạn của những hoạt động ngoài tố tụng (quy định cụ thể những việc Thẩm phán không được làm; những việc có thể làm, nhưng phải cẩn trọng; những việc có thể làm, nhưng trong khuôn khổ…)…

Như vậy, quy định của Hiến pháp, pháp luật; đặc điểm nghề nghiệp và thực tiễn tư pháp cũng như chuẩn mực và kinh nghiệm quốc tế đòi hỏi Thẩm phán phải tuân thủ các quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp nhất định. Các quy chuẩn đó, một mặt được quy định trong hệ thống pháp luật (về tiêu chuẩn bổ nhiệm; về nhiệm vụ, quyền hạn; về trách nhiệm…); đồng thời, phải được quy định trong các bộ quy tắc nghề nghiệp. Các phân tích trên lý giải sự cần thiết mang tính cấp bách cho việc ban hành Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán ở nước ta.

2. Sự liêm chính, vô tư, khách quan của Thẩm phán trong Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán Việt Nam

2.1. Quyết định về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức hệ thống Tòa án

Ở Việt Nam, trước đây, vấn đề quy tắc đạo đức của Thẩm phán được quy định trong các văn bản khác nhau. Thẩm phán được coi như là một công chức nhà nước và được điều chỉnh bởi Luật Cán bộ, công chức.

Lần đầu tiên, ngày 18/9/2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án. Trong đó có quy định về ứng xử chung (Điều 1); Ứng xử trong thực hiện nhiệm vụ giải quyết, xét xử các loại vụ án (Điều 2); Ứng xử trong thực hiện tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều 3); Ứng xử trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng (Điều 4); Ứng xử trong cơ quan, đơn vị (Điều 5) và Ứng xử tại nơi cư trú (Điều 6)… Trong quyết định này, sự liêm chính, vô tư, khách quan đã được quy định như là một trong những nội dung cốt lõi trong ứng xử của cán bộ, công chức Tòa án nói chung, của Thẩm phán nói riêng.

Tuy là quyết định riêng cho các Tòa án, nhưng Quyết định vẫn coi Thẩm phán như là cán bộ, công chức; chưa có sự phân biệt trong ứng xử của Thẩm phán với các cán bộ khác ở các Tòa án như Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên…; chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa Thẩm phán giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý và Thẩm phán thường.

2.2. Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán Việt Nam

Để thay thế Quyết định trên, ngày 04/7/2018, Hội đồng Tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia đã ban hành Quyết định về Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán (sau đây viết tắt là Bộ Quy tắc). Bộ Quy tắc quy định những chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử của Thẩm phán.

Bộ Quy tắc áp dụng đối với Thẩm phán công tác tại Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp; khuyến khích áp dụng đối với các Thẩm phán đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác.

Cùng với quy định của pháp luật, Bộ Quy tắc là cơ sở để Hội đồng Tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia thực hiện việc giám sát, đánh giá về đạo đức, ứng xử của Thẩm phán; của người được bổ nhiệm lại hoặc bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác và là một trong những căn cứ để xem xét việc khen thưởng, kỷ luật đối với Thẩm phán.

Cùng với các chuẩn mực đạo đức khác, Bộ Quy tắc quy định về sự liêm chính, sự vô tư, khách quan như là các chuẩn mực đạo đức hàng đầu mà Thẩm phán các Tòa án Việt Nam cần tuân thủ.

2.2.1. Sự liêm chính

Điều 4 Bộ Quy tắc quy định:

“1. Thẩm phán phải liêm chính, trong sạch, thẳng thắn, trung thực. Thẩm phán không được lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cho mình hoặc cho người khác; không để các thành viên trong gia đình, cán bộ, công chức Tòa án dưới quyền quản lý của mình đòi hỏi hoặc nhận tiền, tài sản, những lợi ích khác từ bất kỳ ai vì lý do liên quan đến công việc mà Thẩm phán giải quyết. Thẩm phán phải công khai thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật”.

Theo quy định thì Thẩm phán phải liêm khiết, trong sạch, không lợi dụng địa vị Thẩm phán, lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn trong giải quyết các vụ án để mưu cầu lợi ích cho bản thân hoặc gia đình như lời Hồ Chủ tịch đã từng nói, cán bộ Tòa án nói chung, đặc biệt là Thẩm phán phải: “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”.

Là người có thẩm quyền xét xử các vụ án, phán quyết các tranh chấp liên quan đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân, cho nên Thẩm phán phải đối mặt với có rất nhiều cám dỗ về lợi ích vật chất hoặc phi vật chất. Thẩm phán và các thành viên gia đình Thẩm phán không chỉ không được đòi hỏi, mà còn phải từ chối mọi lợi ích mà bất kỳ ai mang đến cho mình và gia đình liên quan đến vụ việc mà Thẩm phán đang và đã giải quyết; từ chối bất kỳ món “quà” nào do người tham gia tố tụng liên quan và người thân thích của họ mang lại.

Cũng có ý kiến cho rằng, Thẩm phán có thể nhận những món “quà” mà người tham gia tố tụng cảm ơn do đã có phán quyết đúng đắn, khách quan, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, thể hiện đạo lý của người Việt. Chúng tôi cho rằng, quan niệm đó là không đúng; việc nhận quà trong các trường hợp này là mầm mống cho sự thiếu liêm khiết, trong sạch của Thẩm phán trong hoạt động của mình trong tương lai; làm ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng vào sự trung thực, khách quan, vô tư của hệ thống tư pháp. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, một nền hành pháp hối lộ có thể phòng ngừa và chống có hiệu quả, nhưng nếu một nền tư pháp hối lộ thì sẽ vô cùng nguy hiểm cho Công lý.

Thẩm phán phải liêm chính có nghĩa rằng người Thẩm phán liêm khiết thôi thì cũng chưa đủ; đi cùng với sự liêm khiết trong công việc và đời sống, Thẩm phán phải thể hiện thái độ chính trực trong công việc. Thẩm phán kiên quyết giải quyết công việc, xét xử các vụ án, giải quyết các tranh chấp theo đúng quy định của pháp luật và lương tâm trong sáng của mình. Liêm khiết, đảm bảo năng lực là các điều kiện quan trọng để Thẩm phán chính trực.

Thẩm phán phải thẳng thắn, trung thực khi thực hiện nhiệm vụ xét xử; tôn trọng sự thật khách quan của vụ việc mà mình giải quyết; kiên quyết thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền được pháp luật giao, không bị tác động, chi phối do bất kỳ lý do gì. Sự thật và pháp luật là những chuẩn mục mà Thẩm phán tuân theo; Công lý là đích mà Thẩm phán phấn đấu hướng tới; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải luôn luôn được Thẩm phán bảo vệ trong quá trình thực hiện nghề nghiệp của mình.

Để thể hiện sự liêm chính, trong sạch của mình và khẳng định niềm tin của công chúng vào sự liêm chính, trong sạch đó, Thẩm phán phải có nghĩa vụ kê khai và công khai tài sản theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật phòng chống tham nhũng.

2.2.2. Sự vô tư, khách quan

Điều 5 Bộ Quy tắc quy định:

„1. Thẩm phán phải vô tư, khách quan; thực hiện nhiệm vụ một cách đúng đắn, không vì lợi ích cá nhân, không thiên vị bất cứ bên nào trong vụ việc. 

Thẩm phán phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét công khai tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ việc. 

Thẩm phán không được có bất cứ phát biểu hay bình luận nào tại phiên tòa, phiên họp, trước công chúng hoặc truyền thông làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ việc một cách vô tư, khách quan“.

Theo quy định tại Điều này, Thẩm phán phải thực hiện nhiệm vụ một cách vô tư, khách quan, không thiên vị, không phân biệt về dân tộc, giới tính, địa vị xã hội, nghề nghiệp…

Trong mọi trường hợp, nếu có sự xung đột lợi ích trong vụ việc, quyền hoặc lợi ích của mình hoặc người thân thích trong gia đình có liên quan đến vụ việc mà Thẩm phán đang giải quyết, thì Thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng theo quy định của luật; hoặc trong mọi trường hợp, nếu Thẩm phán thấy rằng, việc giải quyết vụ án có thể bị ảnh hưởng, thiếu vô tư, khách quan (như liên quan đến lợi ích của bản thân, cấp trên, cấp dưới, họ hàng xa…) thì Thẩm phán cũng cần chủ động từ chối tiến hành tố tụng.

Thực tiễn đã chứng minh rằng, thiếu vô tư, khách quan trong xét xử các vụ án thường dẫn Thẩm phán đến các sai lầm nghiêm trọng; thậm chí, làm oan người vô tội, vi phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Để đảm bảo tính khách quan trong xét xử, Thẩm phán phải trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp và được xem xét, kiểm tra công khai tại phiên tòa, kết quả tranh tụng của các bên buộc tội và gỡ tội, nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự, bên khởi kiện và bên bị kiện…tại phiên tòa;

Theo Quy tắc này thì, Thẩm phán,căn cứ vào pháp luật, tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ việc và ra bản án, quyết định về vụ việc thuộc thẩm quyền được giao. Tuy nhiên, không phải tất cả các căn cứ nêu trên đều được sử dụng để giải quyết tất cả các vụ việc; mà phải tùy theo từng loại án để tham khảo, áp dụng.

Đối với vụ án hình sự, Thẩm phán phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc có luật, tức tội phạm và hình phạt phải do luật định. Thẩm phán chỉ căn cứ vào pháp luật (luật và các văn bản quy phạm giải thích, hướng dẫn áp dụng luật, án lệ…) để phán quyết.

Còn đối với các vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động… thì ngoài pháp luật, Thẩm phán căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết. Khoản 2 Điều 14 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”.

Mọi suy diễn chủ quan không trên cơ sở của chứng cứ, của kết quả tranh tụng, mọi định kiến cá nhân, mọi động cơ không vì lợi ích công lý… trong thực hiện nhiệm vụ của Thẩm phán đều trái với sự vô tư, khách quan trong chuẩn mực đạo đức Thẩm phán.

Cũng theo quy định của Điều 5 Bộ Quy tắc, thì Thẩm phán không được có bất cứ phát biểu hay bình luận nào tại phiên tòa, phiên họp, trước công chúng hoặc truyền thông làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ việc một cách vô tư, khách quan. Việc Thẩm phán phát ngôn trước công luận về vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình dễ làm phát sinh nghi ngờ của dư luận, của công chúng, của truyền thông vào sự vô tư, khách quan của Thẩm phán khi giải quyết vụ án. Và vì vậy, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng đối với hệ thống tư pháp, đối với Tòa án và Công lý.

Những chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán về sự liêm chính, sự vô tư, khách quan có quan hệ rất chặt chẽ, qua lại và bổ sung cho nhau giữa các chuẩn mực này và với cả các chuẩn mực đạo đức khác của Thẩm phán như tính độc lập; sự công bằng, bình đẳng; sự đúng mực; sự tận tụy và không chậm trễ; năng lực và sự chuyên cần.

Thẩm phán thiếu sự liêm chính thì không thể có được sự vô tư, khách quan, không thiên vị; và ngược lại, khó có thể nói đến sự liêm khiết, chính trực trong giải quyết vụ việc mà ở đó, Thẩm phán thiếu sự vô tư, khách quan.

Thẩm phán thiếu liêm chính, thiếu vô tư, khách quan, chịu sự tác động của lợi ích… thì không thể độc lập; đảm bảo sự công bằng, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, trước Tòa án. Trong trường hợp này, năng lực và sự chuyên cần cũng không có ý nghĩa gì.

Ứng xử của Thẩm phán trong công việc, tại cơ quan, đơn vị, tại nơi cư trú, tại gia đình, nơi công cộng, ứng xử với truyền thông… là thể hiện rõ nét nhất các chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán.

Vì vậy, các chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử của Thẩm phán tạo thành một thể thống nhất, đồng bộ. Việc thi hành đúng đắn, đầy đủ các chuẩn mực đạo đức, các quy tắc ứng xử góp phần xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ trình độ, năng lực, đạo đức để hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, hiệu quả, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ, lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên thực tế và trong sự đánh giá của công chúng.

3. Đảm bảo thực thi quy định về sự liêm chính, vô tư, khách quan của Thẩm phán ở Việt Nam

Hội đồng Tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia nước ta đã ban hành Bộ Quy tắc đạo đức và quy tắc ứng xử của Thẩm phán, trong đó, có các chuẩn mực về sự liêm chính, sự vô tư, khách quan của Thẩm phán. Đây là sự đóng góp quan trọng và cần thiết vào việc các quy chuẩn đội ngũ Thẩm phán nước ta.

Việc thực hiện các chuẩn mực này phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực, sự tự giác và cố gắng của mỗi cá nhân Thẩm phán. Tuy nhiên, việc thực hiện đó cũng phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện bảo đảm khác.

Để các Thẩm phán quán triệt và thực hiện tốt các quy định của Bộ Quy tắc về sự liêm chính, vô tư, khách quan, theo chúng tôi, cần thực hiện các nhóm giải pháp sau.

Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về sự liêm chính, vô tư, khách quan của Thẩm phán trong hoạt động nghề nghiệp; nhận thức của hệ thống chính trị, của Tòan xã hội vào vị trí của Thẩm phán và vai trò của Thẩm phán trong xã hội.

Thẩm phán không phải là cán bộ, công chức bình thường; mà là người có hoạt động nghề nghiệp đặc thù để bảo vệ công lý. Vì vậy, Thẩm phán phải chịu nhiều những hạn chế nghề nghiệp cũng như cuộc sống; địa vị chính trị, xã hội, pháp lý của Thẩm phán khác hơn; có tiêu chuẩn bổ nhiệm, trách nhiệm nghề nghiệp cao hơn. Đồng thời, Thẩm phán phải được Nhà nước chăm lo, bảo vệ tốt hơn về vật chất, về tinh thần, có chế độ bảo vệ đặc thù khi quyền, lợi ích liên quan bị xâm phạm, quyền miễn trừ trong một số trường hợp…;

Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan về nội dung mà Thẩm phán áp dụng, pháp luật về thủ tục tư pháp mà Thẩm phán thực hiện trong hoạt động nghề nghiệp của mình;

Ba là, có những chính sách đặc thù đối với Thẩm phán trong bổ nhiệm, đề bạt, nhiệm kỳ; trong chế độ trách nhiệm, kỷ luật; trong chế độ đãi ngộ … để họ an tâm thực hiện nhiệm vụ, chấp hành nghiêm các chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử theo quy định…

 

 

 

[1]Bộ Quy tắc đạo đức Thẩm phán được Đại hội Thẩm phán Liên bang Nga lần thứ VI thông qua ngày 02/12/ 2004.

[2] Được Hội nghị tư pháp (Cơ quan quản lý Thẩm phán) thông qua ngày 05/4/1973 và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào các năm 1987, 1992, 1996 và 2000.

[3]Được Toà án nhân dân tối cao ban hành ngày 18/10/2001.

PGS.TS TRẦN VĂN ĐỘ