Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 theo trình tự, thủ tục rút gọn

Ngày 10/9/2021, VKSNDTC đã trình UBTVQH xem xét, cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS 2015. Theo đó, VKSNDTC đề xuất Quốc hội khóa XV xem xét, thông qua Luật theo trình tự, thủ tục rút gọn tại kỳ họp thứ 2, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022. Bài viết sau đây xin giới thiệu những nội dung chính của việc sửa đổi, bổ sung nêu trên.

1.Sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS

Theo Tờ trình số 16/TTr-VKSTC ngày 10/9/2021 của VKSNDTC[1] (sau đây gọi tắt là Tờ trình số 16), BLTTHS năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12/11/2018 của Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) cùng các văn kiện liên quan (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 72/2018/QH14) và Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP đã giao trách nhiệm cho VKSND tối cao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan rà soát BLTTHS để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định CPTPP[2]. Theo Nghị quyết này, thời điểm cam kết liên quan đến BLTTHS trong Hiệp định là 03 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, tức là ngày 14/01/2022.

Theo Tờ trình số 16, quy định tại khoản 1 Điều 155 và khoản 8 Điều 157 BLTTHS chưa tương tích với điểm g khoản 6 Điều 18.77 Hiệp định CPTPP đối với nội dung liên quan đến việc cho phép cơ quan có thẩm quyền có thể khởi tố vụ án hình sự về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mà không cần yêu cầu của người bị hại; từ đó, đặt ra yêu cầu phải bỏ quy định dẫn chiếu đến hành vi này tại khoản 1 Điều 155 và khoản 8 Điều 157 BLTTHS.

Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS (gọi tắt là Luật) và trình Quốc hội khóa XV xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 2 là hết sức cần thiết để đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP và bảo đảm đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định CPTPP tại Nghị quyết số 72/2018/QH14.[3]

Mặt khác, thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về bố trí Công an xã chính quy đảm nhiệm các chức danh Công an xã[4], thực hiện quy định của pháp luật[5], với phương châm “bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”, hiện nay, lực lượng Công an xã - đã được tổ chức chính quy (về chức danh, cơ cấu lực lượng, năng lực, trách nhiệm…) là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn xã; đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đang diễn ra phức tạp như hiện nay thì Công an xã càng đóng vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cần thiết phải xử lý ngay vụ việc tại địa bàn cơ sở. Do vậy, việc bổ sung trách nhiệm kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm đối với Công an xã (tương đương với trách nhiệm của Công an phường, thị trấn, Đồn Công an)trong BLTTHS là cần thiết để tăng cường vai trò của Công an xã, đồng thời kịp thời giảm tải khối lượng công việc hiện đang rất lớn cho Cơ quan điều tra Công an cấp huyện, giải quyết khó khăn, vướng mắc cấp bách trong hoạt động điều tra hình sự do diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 từ địa bàn cấp cơ sở. Điều này đặt ra việc phải sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 146 BLTTHS để đáp ứng thực tiễn nêu trên.

Do tình hình thiên tai, những tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, việc kiểm tra, xác minh các vụ việc trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,việc tiến hành các hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra và việc tiến hành các hoạt động tố tụng trong giai đoạn truy tố của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bị trì hoãn, kéo dài do không thể thực hiện được các hoạt động cần thiết để xác định hành vi phạm tội, người phạm tội để quyết định việc khởi tố; để chứng minh tội phạm kết thúc điều tra hoặc để quyết định việc truy tố. Việc tống đạt các quyết định tố tụng cho người bị buộc tội hoặc chuyển hồ sơ vụ án sang các giai đoạn tố tụng tiếp theo, việc chuyển các chứng cứ, tài liệu, đồ vật cho Viện kiểm sát, Tòa án… bị trì hoãn, không thể tiến hành được. Các cơ quan có thẩm quyền cũng không thể tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội do đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố.[6]

Theo quy định của pháp luật, trong giai đoạn điều tra, nếu hết thời hạn điều tra mà không hoàn thiện được hồ sơ và thực hiện đầy đủ các hoạt động tố tụng theo luật định để chứng minh bị can đã thực hiện tội phạm thì phải đình chỉ điều tra; điều này dẫn đến việc xem xét trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, thậm chí có nguy cơ phải chịu trách nhiệm hình sự, làm ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, giảm sút lòng tin trong Nhân dân, trong khi việc đình chỉ điều tra không phải do lỗi chủ quan từ phía các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc đình chỉ điều tra trong trường hợp này có thể dẫn đến bỏ lọt tội phạm, người phạm tội và những hậu quả lớn khác do vụ án không được giải quyết đúng.

Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không thể tiến hành các hoạt động tố tụng để có căn cứ ra các quyết định trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án hình sự); Cơ quan điều tra không thể kết luận điều tra đề nghị truy tố; Viện kiểm sát cũng không thể ban hành Cáo trạng để chuyển vụ án sang Tòa án vì chưa đủ căn cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, không thể xử lý tình huống bằng cách ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ vụ án do không có căn cứ. Trong khi đó, khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 229 và khoản 1 Điều 247 BLTTHS không có quy định cho phép tạm đình chỉ trong trường hợp “vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh”. Điều này dẫn đến việc vụ án, vụ việc không có cách giải quyết tiếp theo đúng quy định của pháp luật.

Do vậy, theo Tờ trình số 16, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 229, khoản 1 Điều 247 BLTTHS theo hướng bổ sung: (i) căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố; (ii) căn cứ tạm đình chỉ điều tra; và (iii) căn cứ tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố “vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh” để giải quyết khó khăn, vướng mắc cấp bách từ thực tiễn hiện nay cũng như khả năng sẽ phát sinh trong thời gian tới.

Việc quy định căn cứ tạm đình chỉ trong các trường hợp nêu trên cũng dẫn đến việc phải xem xét hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đang áp dụng. Tuy nhiên, việc này sẽ được thực hiện một cách có căn cứ theo quy định của luật và các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ phải cân nhắc, xem xét, quyết định theo từng trường hợp cụ thể và chịu trách nhiệm bảo đảm để không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, vụ việc khi được phục hồi. Còn nếu không bổ sung theo hướng này thì các cơ quan có thẩm quyền cũng không thể tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người bị buộc tội do không còn căn cứ nào để áp dụng vì đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố.[7]

2. Xây dựng, ban hành Luật theo trình tự, thủ tục rút gọn

Nội dung sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 155, khoản 8 Điều 157 BLTTHS để đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP, bảo đảm đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định CPTPP tại Nghị quyết số 72/2018/QH14 và các nội dung sửa đổi, bổ sung: (i) sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 146 BLTTHS và (ii) sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 229, khoản 1 Điều 247 BLTTHS để giải quyết yêu cầu cấp thiết của thực tiễn xử lý vụ án hình sự trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đều thuộc các trường hợp có thể xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 146 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, việc xây dựng dự án Luật theo trình tự, thủ tục rút gọn là có căn cứ.

Từ những lý do nêu trên, việc xây dựng và trình Quốc hội khóa XV xem xét, thông qua Luật tại kỳ họp thứ 2 là hết sức cần thiết để đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP, bảo đảm đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định CPTPP tại Nghị quyết số 72/2018/QH14 và giải quyết ngay những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn.[8]

3. Nội dung sửa đổi, bổ sung

VKSND tối cao đề xuất dự thảo Luật gồm 02 điều, Điều 1 về sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của BLTTHS, Điều 2 về hiệu lực thi hành. Trong đó, dự thảo Điều 1 quy định sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của BLTTHS như sau:

3.1. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 146 theo hướng bổ sung trách nhiệm kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm đối với Công an xã (tương đương với trách nhiệm của Công an phường, thị trấn, Đồn Công an). Cụ thể, khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật quy định:

Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 146 như sau:

“3. Công an , phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”.

3.2. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 148 theo hướng bổ sung căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh mà cơ quan có thẩm quyền giải quyết không thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Cụ thể, khoản 2 Điều 1 dự thảo Luật quy định:

Bổ sung điểm c vào sau điểm b khoản 1 Điều 148 như sau:

“c) Vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh mà không thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án”.

3.3. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 155 theo hướng bãi bỏ nội dung dẫn chiếu tới Điều 226 của BLHS để cho phép cơ quan có thẩm quyền có thể khởi tố vụ án hình sự hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với cả nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý mà không cần có yêu cầu khởi tố của bị hại. Cụ thể, khoản 3 Điều 1 dự thảo Luật quy định: “Bỏ cụm từ “và 226”; thay thế dấu “,” trước số “156” bằng từ “và” tại khoản 1 Điều 155”.

Hiệp định CPTPP chỉ đặt ra yêu cầu phải bỏ quy định dẫn chiếu đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo khoản 1 Điều 226 BLHS tại khoản 1 Điều 155 và khoản 8 Điều 157 BLTTHS. Tuy nhiên, ngoài hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, khoản 1 Điều 226 BLHS còn quy định về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý.

Theo quy định của pháp luật thì nhãn hiệuchỉ dẫn địa lý đều được sử dụng để chỉ dẫn nguồn gốc của sản phẩm, dịch vụ và việc xâm phạm đến quyền đối với hai đối tượng này đều ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng, trật tự của thị trường. Đồng thời, nếu như nhãn hiệu chỉ là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau và tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu đối với nhãn hiệu; thì chỉ dẫn địa lý làdấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm có nguồn gốc từ các khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc quốc gia khác nhau, do vậy, chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa quan trọng được pháp luật quy định là thuộc sở hữu của Nhà nước. Việc Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu quyền chủ động tham gia vào tố tụng hình sự, cụ thể là yêu cầu khởi tố hành vi xâm phạm quyền, là khó khả thi trong thực tế.Thêm vào đó, mặc dù Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương nơi có chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý, nhưng những chủ thể này không trở thành chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý đó.

Xuất phát từ tính chất, đặc điểm nêu trên thì việc tăng cường bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, tương tự với cơ chế bảo vệ bằng thủ tục tố tụng hình sự đối với nhãn hiệu, thông qua việc cho phép cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ động khởi tố vụ án mà không cần có yêu cầu khởi tố của bị hại đối với hành vi xâm phạm chỉ dẫn địa lý, là hết sức cần thiết để góp phần bảo vệ tài sản quốc gia, bảo hộ hiệu quả thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp, địa phương, bảo đảm trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp và phát huy những tác động tích cực khác đến kinh tế - xã hội của đất nước.

Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý là những hành vi có tính chất tương đồng, mức độ nguy hiểm như nhau, do vậy, các hành vi này đều được quy định tại khoản 1 của Điều 226 BLHS để xử lý với cùng 01 khung hình phạt. Do đó, trường hợp chỉ bỏ quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mà không bỏ quy định này đối với chỉ dẫn địa lý thì sẽ không bảo đảm sự thống nhất về chính sách hình sự, không bảo đảm công bằng trong áp dụng chính sách hình sự, không bảo đảm sự thống nhất về kỹ thuật lập pháp.

3.4. Sửa đổi, bổ sung khoản 8 Điều 157 theo hướng bãi bỏ nội dung dẫn chiếu tới Điều 226 của BLHS để bỏ căn cứ không khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 226 của BLHS mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố. Cụ thể, khoản 4 Điều 1 dự thảo Luật quy định: “2. Bỏ cụm từ “và 226”; thay thế dấu “,” trước số “156” bằng từ “và” tại khoản 8 Điều 157”.

3.5. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 229 theo hướng bổ sung căn cứ tạm đình chỉ điều tra vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh mà không thể kết thúc điều tra nhưng đã hết thời hạn điều tra. Cụ thể, khoản 5 Điều 1 dự thảo Luật quy định:

Bổ sung điểm d vào sau điểm c khoản 1 Điều 229 như sau:

“d) Khi không thể kết thúc điều tra vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh nhưng đã hết thời hạn điều tra”.

3.6. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 247 theo hướng bổ sung căn cứ tạm đình chỉ vụ án hình sự vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh mà không thể tiến hành các hoạt động tố tụng để quyết định việc truy tố nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố. Cụ thể, khoản 6 Điều 1 dự thảo Luật quy định:

Bổ sung điểm d vào sau điểm c khoản 1 Điều 247 như sau:

“d) Khi không thể tiến hành các hoạt động tố tụng để quyết định việc truy tố vì lý do bất kháng do thiên tai, dịch bệnh nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố”.[9]

4. Hiệu lực thi hành

Theo Điều 2 của dự thảo Luật, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022, trừ quy định về việc bổ sung căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tạm đình chỉ điều tra; tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố (quy định tại các khoản 2, 5 và 6 Điều 1 của Luật này) có hiệu lực thi hành kể từ ngày Quốc hội thông qua./.

 

Công an thị trấn Nham Biền, Yên Dũng, Bắc Giang tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm từ người dân -Ảnh: Tuấn Minh

 

[1] Xem Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tờ trình số 16/TTr-VKSTC ngày 10/9/2021 về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Trang Dự thảo online, tại địa chỉ: https://duthaoonline.quochoi.vn/Pages/dsduthao/chitietduthao.aspx?id=7400, truy cập ngày 17/9/2021.

[2]Tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 72/2018/QH14.

[3] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tlđd, tr. 2.

[4] Tại Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 15/3/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

[5] Luật Công an nhân dân năm 2018, Nghị định số 42/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 của Chính phủ quy định việc xây dựng Công an xã, thị trấn chính quy.

[6] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tlđd, tr. 3.

[7] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tlđd, tr. 4.

[8] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tlđd, tr. 5.

[9] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tlđd, tr. 6-8.

 

ThS. TẠ ĐÌNH TUYÊN