Thế nào dâm ô, loạn luân… trong các tội xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi

Ngày 14/10, TANDTC tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai thi hành Nghị quyết số 06/ HĐTP-TANDTC ngày 01-10-2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. PGS.TS Nguyễn Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC chủ trì hội nghị.

Để kịp thời đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm, khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn xét xử, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 06 ngày 01-10-2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị quyết số 06 gồm 08 điều. Hội nghị đã làm rõ những nội dụng cụ thể được quy định trong Nghị quyết

1.Phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết

Theo Điều 1, Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS, cụ thể là Điều 141 Tội hiếp dâm; Điều 142 Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Điều 143 Tội cưỡng dâm; Điều 144 Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi; Điều 145 Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi; Điều 146 Tội dâm ô với người dưới 16 tuổi; Điều 147 Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm.

Hướng dẫn giải quyết các vướng mắc trong thực tiễn xét xử; Hướng dẫn việc tổ chức xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.

2. Thống nhất 5 thuật ngữ pháp lý

Các thuật ngữ được sử dụng nhiều lần trong Nghị quyết, gồm:

1. Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi;
2. Bộ phận sinh dục;
3. Bộ phận nhạy cảm;
4. Bộ phận khác trên cơ thể;
5. Dụng cụ tình dục.

Việc hướng dẫn cách hiểu thống nhất các thuật ngữ này còn nhằm hạn chế việc phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần các thuật ngữ mô tả các bộ phận có tính nhạy cảm trong quá trình hướng dẫn áp dụng.
3.Nghị quyết hướng dẫn áp dụng 11 tình tiết định tội

Điều 3 của Nghị quyết giải thích các tình tiết “Giao cấu”, “Hành vi quan hệ tình dục khác” và “Dâm ô”.

“1. Giao cấu quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.

Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.

“2. Hành vi quan hệ tình dục khác quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của BLHS là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:

a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;

b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.”

“3. Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của BLHS là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây:

a) Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;

b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi…) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

c) Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

d) Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;
đ) Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy… của người dưới 16 tuổi).”

Việc giải thích các tình tiết nêu trên giúp các cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng phân biệt hành vi khách quan của các tội hiếp dâm (điều 141); hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điều 142); cưỡng dâm (điều 143); cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (điều 144); giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (điều 145; và Tội dâm ô với người dưới 16 tuổi (điều 146) của BLHS.

Ngoài ra, Điều 3 của Nghị quyết còn hướng dẫn các tình tiết định tội khác như: Trình diễn khiêu dâm; Trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm; Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân; Thủ đoạn khác; Trái với ý muốn của nạn nhân; Người lệ thuộc; Người đang ở trong tình trạng quẫn bách.

4.Nghị quyết hướng dẫn áp dụng 04 tình tiết định khung hình phạt

4 tình tiết định khung hình phạt là Có tính chất loạn luân; Phạm tội 02 lần trở lên; Nhiều người hiếp một người; và Nhiều người cưỡng dâm một người. Trong đó, tình tiết “Có tính chất loạn luân” được hướng dẫn theo hướng mở rộng diện, vượt ra ngoài mối quan hệ dòng máu trực hệ như ở “Tội loạn luân” quy định tại Điều 184 BLHS. Cụ thể:

“1. Có tính chất loạn luân quy định tại điểm e khoản 2 Điều 141, điểm a khoản 2 Điều 142, điểm d khoản 2 Điều 143 và điểm a khoản 2 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

a) Phạm tội đối với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;

b) Phạm tội đối với cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, cháu ruột;

c) Phạm tội đối với con nuôi, bố nuôi, mẹ nuôi;

d) Phạm tội đối với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế;

đ) Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.”

5.Các trường hợp loại trừ xử lý hình sự về các tội Dâm ô với người dưới 16 tuổi và Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm.

1. Không xử lý hình sự theo quy định tại Điều 146 của BLHS nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người trực tiếp chăm sóc, giáo dục người dưới 10 tuổi, người bệnh, người tàn tật, có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của họ nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: cha, mẹ tắm rửa, vệ sinh cho con dưới 10 tuổi; giáo viên mầm non tắm rửa, vệ sinh cho trẻ mầm non…);

b) Người làm công việc khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế; người cấp cứu, sơ cứu người bị nạn có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: bác sĩ khám, chữa bệnh cho bệnh nhân; sơ cứu, cấp cứu người bị tai nạn, người bị đuối nước…).

2. Không xử lý hình sự theo quy định tại Điều 147 của BLHS đối với trường hợp người làm công tác giáo dục, khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế mô tả bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của con người vì mục đích giáo dục, khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế.

6. Nghị quyết hướng dẫn nguyên tắc, đường lối xử lý đối với người phạm tội xâm hại tình dục

Theo đó, khi xét xử vụ án xâm hại tình dục, các Tòa án phải:

1. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.

2. Áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm luân thường, đạo đức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng nghề nghiệp, công việc; xâm hại người dưới 13 tuổi.

3. Áp dụng các hình phạt bổ sung cao nhất theo quy định của Bộ luật Hình sự và các đạo luật khác có liên quan. Trong trường hợp cần thiết có thể cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề liên quan đến người dưới 16 tuổi.

7.Nghị quyết hướng dẫn việc tổ chức xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi

1. Thời hạn xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi được thực hiện như sau:

a) Áp dụng thủ tục rút gọn đối với các trường hợp đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;

b) Đưa các vụ án khác ra xét xử trong thời hạn không quá ½ thời hạn pháp luật cho phép đối với các trường hợp tương ứng.”

– Khoản 2 Điều 7 hướng dẫn 05 nội dung mà Tòa án phải thực hiện khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, cụ thể:

a) Xét xử kín, tuyên án công khai theo đúng quy định tại Điều 327 của BLTTHS. Khi tuyên án, Hội đồng xét xử chỉ đọc phần quyết định trong bản án;

b) Phân công Thẩm phán có kiến thức hoặc kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi;

c) Khi tham gia xét xử, Thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của Tòa án nhân dân, không mặc áo choàng;

d) Xử án tại Phòng xét xử thân thiện theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21 tháng 9 năm 2018 của Chánh án TANDTC;

đ) Có sự tham gia của người đại diện, người giám hộ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi.

– Khoản 3 Điều 7 hướng dẫn 05 nội dung mà Tòa án cần thực hiện khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi

a) Hạn chế triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa nếu vẫn giải quyết được vụ án bằng việc áp dụng các biện pháp thay thế khác (ví dụ: sử dụng lời khai của họ ở giai đoạn điều tra, truy tố; mời họ đến Tòa án hoặc địa điểm hợp pháp khác để lấy lời khai trước bằng văn bản, bằng ghi âm, ghi hình có âm thanh…).

b) Trường hợp phải triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa, Tòa án cần tạo điều kiện để họ làm quen, tiếp xúc với môi trường Tòa án, với quy trình và thủ tục xét xử; bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử (ví dụ: micro, loa, ti vi, camera…) để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của họ khi họ khai báo, tham gia tố tụng tại phiên tòa; trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo và khoảng cách giữa Hội đồng xét xử với người bị hại là người dưới 18 tuổi không quá 03 mét.
c) Câu hỏi đối với bị hại là người dưới 18 tuổi phải phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển, trình độ văn hóa, hiểu biết của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu; không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc; chỉ đặt câu hỏi làm rõ tình tiết vụ án; không đặt câu hỏi chỉ để tranh luận. Câu hỏi đối với bị hại dưới 10 tuổi không quá 10 từ và thời gian hỏi không liên tục quá 01 giờ.

d) Sử dụng sơ đồ hoặc mô hình cơ thể có đánh số thứ tự các bộ phận để người bị hại là người dưới 18 tuổi xác định các bộ phận bị xâm hại.

đ) Khi bị cáo đề nghị được hỏi bị hại là người dưới 18 tuổi thì phải chuyển câu hỏi cho người bào chữa hoặc Hội đồng xét xử hỏi.

– Khoản 4 Điều 7 hướng dẫn 07 nội dung mà Tòa án không được thực hiện khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, gồm:

a) Yêu cầu bị hại là người dưới 18 tuổi tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội;

b) Sử dụng câu hỏi có tính chất công kích, đe dọa, gây xấu hổ, xúc phạm bị hại;

c) Đối chất giữa bị hại với người phạm tội tại phiên tòa;

d) Xác định bộ phận bị xâm hại bằng cách để bị hại là người dưới 18 tuổi chỉ trực tiếp vào bộ phận cơ thể của mình hoặc của người khác;

đ) Để bị cáo hỏi trực tiếp bị hại là người dưới 18 tuổi;

e) Buộc bị hại là người dưới 18 tuổi phải đứng khi tham gia tố tụng tại phiên tòa;

g) Công khai bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến vụ án trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án.

Đây là các hướng dẫn mới về thủ tục tố tụng ở giai đoạn xét xử vụ án. Hướng dẫn này thể hiện tinh thần cải cách tư pháp rõ nét, được thực hiện trên cơ sở tiếp thu, học tập kinh nghiệm và các chuẩn mực quốc tế tiến bộ.

8. Về hiệu lực thi hành

Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua ngày 20 tháng 9 năm 2019 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05 tháng 11 năm 2019.

Trường hợp người phạm tội đã bị xét xử trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các quy định, hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

VŨ HÙNG