Xác định cha mẹ cho con, ly hôn, cấp dưỡng trong mối liên hệ với BLTTDS năm 2015

Những điểm còn vướng mắc, bất cập chưa thống nhất giữa Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNGĐ) năm 2014 với Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, đã được đăng tải. Trong bài này tác giả xin đưa những vướng mắc bất cập khác và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo sự tương thích và thuận lợi hơn khi xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân.

1.Các vụ việc về xác định cha, mẹ, con trong mối liên hệ với BLTTDS năm 2015

Luật HNGĐ năm 2014 quy định các vụ việc xác định cha, mẹ, con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bao gồm: việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp, người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết, trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết, sau đó, người thân thích của người đó yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người có yêu cầu đã chết[1], trường hợp có tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ[2] (như trường hợp bên mang thai hộ có yêu cầu buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con khi bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con[3], trường hợp bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên mang thai hộ giao con khi bên mang thai hộ từ chối giao con[4]). Tuy nhiên, Luật HNGĐ năm 2014 không quy định cụ thể các trường hợp có tranh chấp trong việc mang thai hộ khi vi phạm điều kiện mang thai hộ hay mang thai hộ vì mục đich thương mại. BLTTDS quy định các vụ việc trong chế định xác định cha, mẹ, con khi có tranh chấp bao gồm: Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ, tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ về mục đích nhân đạo; Các vụ việc trong chế định xác định cha, mẹ, con khi có yêu cầu, đó là, yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp Luật HNGĐ[5].

Có thể thấy BLTTDS quy định khá chung chung, không rõ ràng. Theo quan điểm của chúng tôi, về yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hay xác định con cho cha, mẹ thì văn bản hướng dẫn cần quy định cụ thể hơn để tránh gây hiểu lầm vì Điều 28 và 29 BLTTDS đều quy định về vấn đề này và dùng thuật ngữ giống nhau là “xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ”. Cần phải hiểu rằng, trường hợp xác định cha, mẹ, con do cơ quan hộ tịch thực hiện không bao gồm trường hợp một người nhận con của một người khác là con và người đang là cha, mẹ cũng đồng ý. Bởi vì, cơ quan đăng ký hộ tịch không thể tước bỏ quyền đang làm cha, mẹ, con của một người rồi lại xác định một người khác là cha, mẹ, con cho dù tất cả các chủ thể có liên quan đều tự nguyện và không có tranh chấp. Trường hợp này vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án, và thuộc yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ. Thêm vào đó, Luật HNGĐ năm 2014 quy định ba trường hợp xác định cha, mẹ, con thuộc thẩm quyền của Tòa án là không hoàn Tòan hợp lý. Đối với trường hợp xác định cha, mẹ, con theo Điều 92 Luật HNGĐ năm 2014 vẫn có thể xếp vào trường hợp có tranh chấp, bởi vì, lúc ban đầu khi một người xác định một người khác là cha, mẹ, con của mình thì có thể vụ việc đó có tranh chấp giữa các đương sự, nhưng đang giải quyết vụ việc thì người này chết, sau đó, người thân thích của người có yêu cầu chết tiếp tục có yêu cầu xác định cha, mẹ, con cho người đã từng có yêu cầu chết thì vẫn có thể có tranh chấp giữa các đương sự. Mặt khác, Điều 92 cũng có thể không có tranh chấp theo như trường hợp xác định một người đang là cha, mẹ, con của một người khác là cha, mẹ, con của mình và các đương sự hoàn Tòan tự nguyện và không có tranh chấp như chúng tôi đã phân tích ở phần trên. Do đó, cần xác định cụ thể trường hợp nào là yêu cầu xác định cha, mẹ, con, trường hợp nào là tranh chấp xác định cha, mẹ, con và cũng để phân định thẩm quyền giải quyết được rõ ràng hơn.

Đối với tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ – đây là loại tranh chấp mới được bổ sung trong BLTTDS:

– Đối với tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cần chỉ rõ là những tranh chấp nào? Chẳng hạn, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thực hiện trong nội bộ cặp vợ chồng vô sinh, nhưng sau khi sinh con, vợ chồng đó đã giám định gen và thấy rằng, đứa trẻ không phải là con mình thì họ có quyền xác định lại quan hệ cha mẹ và con? Họ có quyền kiện cơ sở y tế đã tiến hành kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không? Và trường hợp này có thuộc tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không?

– Đối với tranh chấp về mang thai hộ cũng cần xác định rõ là những tranh chấp nào? Chẳng hạn, việc mang thai hộ vì mục đích thương mại, chứ không phải vì mục đích nhân đạo, việc mang thai hộ vi phạm điều kiện mang thai hộ như người mang thai hộ không phải là người thân thích cùng hàng, việc mang thai hộ không có sự đồng ý của chồng người mang thai hộ và trong thời gian người mang thai hộ đang mang thai hoặc sau khi đứa trẻ được sinh ra thì có yêu cầu hủy bỏ việc mang thai hộ. Đây là những loại vụ việc mà Tòa án vẫn phải giải quyết cho dù không có điều luật áp dụng theo tinh thần tại Điều 4 BLTTDS năm 2015. Trong những trường hợp này, việc giải quyết tuyên bố văn bản thỏa thuận về mang thai hộ thì không có gì khó khăn vì vẫn có luật áp dụng, nhưng vấn đề ở chỗ, việc giải quyết hậu quả của nó, mà đặc biệt là xác định cha, mẹ, con như thế nào? Do đó, pháp Luật HNGĐ cần có những hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Mặt khác, đối với quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ thì Luật HNGĐ năm 2014, BLTTDS quy định khá chung chung, vì vậy, việc xác định chủ thể có quyền yêu cầu là rất khó khăn. Chẳng hạn ai là người có quyền tuyên bố văn bản thỏa thuận về mang thai hộ là vô hiệu…

Đối với tranh chấp xác định cha mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ thì chứng cứ chứng minh quan hệ cha con, mẹ con là bắt buộc. Kết luận giám định được coi là chứng cứ quan trọng nhất, chính xác nhất để xác định tư cách là cha, mẹ, con. Đa phần trong các vụ việc xác định cha, mẹ, con thì các đương sự thường tự mình thực hiện việc giám định gen, theo pháp luật hiện hành, thì kết quả giám định gen này được gọi là giám định ngoài tố tụng, do đó, chỉ được coi là một tài liệu để Tòa án tham khảo, Tòa án có quyền trưng cầu giám định lại theo yêu cầu của đương sự  hoặc khi Tòa án xét thấy cần thiết. Điều này có thể gây ra những phiền phức cho đương sự, họ sẽ mất thời gian, bị thiệt hại về tài chính… Do đó, BLTTDS năm 2015 đã quy định theo hướng chấp nhận kết luận giám định do đương sự tự mình thực hiện: “1. Đương sự có quyền yêu cầu trưng cầu giám định hoặc tự mình trưng cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên Tòa giải quyết vụ việc dân sự.

  1. Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định, triệu tập người giám định đến phiên Tòa, phiên họp để trực tiếp trình bày về các nội dung cần thiết.
  2. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung trong trường hợp nội dung kết luận gáim định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đế tình tiết của vụ việc đã được kết luận giám định trước đó.
  3. Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.” (Điều 102 BLTTDS năm 2015). Quy định như vậy là phù hợp với quá trình xã hội hóa hiện nay, tuy nhiên, chỉ mới dừng lại ở một chừng mực nhất định. Bởi vì, trong các vụ việc về xác định cha, mẹ, con, đặc biệt là khi người chồng nghi ngờ con chung của vợ chồng không phải là con mình, thì họ thường tiến hành giám định gen trước khi yêu cầu khởi kiện ra Tòa chứ không đợi khi yêu cầu trưng cầu giám định của mình bị Tòa án từ chối. Nếu áp dụng Điều 102 BLTTDS năm 2015 thì kết luận giám định này là không có giá trị pháp lý. Theo quan điểm của chúng tôi, trường hợp này cũng tương tự như trường hợp đương sự tự mình trưng cầu giám định sau khi Tòa án từ chối yêu cầu giám định và Tòa án hoàn Tòan có quyền kiểm tra tính xác thực của kết luận gíám định đó theo quy định của pháp luật. Do đó, nên chăng cần chấp nhận cả kết luận giám định mà đương sự đã tự mình thực hiện trước khi khởi kiện để đỡ kinh phí và thời gian của các bên đương sự. Bên cạnh đó, trường hợp này có thể áp dụng Điều 92 BLTTDS về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh “một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không cần phải chứng minh; Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện” (khoản 2, 3). Hiện nay, một vấn đề đặt ra là khi Tòa án trưng cầu giám định gen trong vụ việc xác định cha, mẹ, con mà một trong các đương sự không hợp tác thì có giải pháp gì để khắc phục hay không? Luật Giám định tư pháp năm 2012 không có quy định về quyền và nghĩa vụ của các đương sự đối với việc lấy mẫu giám định trong các vụ việc dân sự. Điều này đã gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Giả sử, nếu người bị xác định là cha, mẹ, con không hợp tác trong việc lấy mẫu giám định nhưng người thân thích của họ lại muốn thực hiện việc đó thì Tòa án có đưa họ vào tham gia tố tụng hay không? Và tổ chức giám định có được phép lẫy mẫu của người đó hay không? Theo quan điểm của chúng tôi, để đảm bảo cho việc xét xử chính xác và nhanh chóng theo đúng thời gian quy định của pháp luật thì cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp này theo hướng: khi đương sự từ chối, không hợp tác trong việc lấy mẫu giám định thì tổ chức giám định được quyền giám định qua người thân thích của họ hoặc phải quy định đây là nghĩa vụ của đương sự để có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế nếu thầy cần thiết.

Mặt khác, Luật HNGĐ năm 2014 đã quy định xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người có yêu cầu đã chết (Điều 92 Luật HNGĐ năm 2014). Theo BLTTDS thì một trong những căn cứ để Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án là “Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế” (điểm a, khoản 1 điều 217 BLTTDS hăm 2015). Về mặt lý luận, quyền xác định cha, mẹ, con là quyền nhân thân gắn liền với chủ thể mà không thể chuyển giao cho người khác, tức là quyền này không được thừa kế. Do vậy, trong trường hợp này phải đình chỉ giải quyết vụ án. Sau đó, những người thân thích của người này sẽ khởi kiện việc xác định cha, mẹ, con cho người đã chết theo một vụ án mới? Hay đây được coi là một trường hợp ngoại lệ, khi người có yêu cầu xác định cha, mẹ, con chết thì người thân thích sẽ tiếp tục tham gia tố tụng trong vụ án đó luôn? Đây là vấn đề mà còn nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, để phù hợp về mặt lý luận, không vi phạm thủ tục tố tụng thì trong trường hợp này phải đình chỉ giải quyết vụ án, sau đó, những người thân thích của người đã từng có yêu cầu chết sẽ được khởi kiện xác định một người là cha, mẹ, con của người đã từng có yêu cầu chết. Quan điểm thứ hai cho rằng, mục đích của nhà làm luật trong việc thiết kế Điều 92 Luật HNGĐ năm 2014 là nhằm giản tiện và tiết kiệm chi phí cũng như thời gian cho đương sự và Tòa án, do đó, đây phải coi là một trường hợp ngoại lệ để cho người thân thích của người đã từng có yêu cầu nhưng bị chết được tiếp tục tham gia tố tụng trong vụ án đó mà không nên đình chỉ rồi lại yêu cầu khởi kiện thành một vụ án mới. Chúng tôi đồng tính với quan điểm thứ hai với cách lập luận như trên.

2.Các vụ việc về ly hôn, cấp dưỡng trong mối liên hệ với BLTTDS năm 2015

Về cơ bản, BLTTDS năm 2015 quy định các vụ việc về ly hôn là tương thích với Luật HNGĐ năm 2014, bao gồm các tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp người nuôi con sau khi ly hôn; tranh chấp về cấp dưỡng và các yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình; yêu cầu quyền thăm nom con sau khi ly hôn. Xét trong nội dung áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc về ly hôn thì BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng[6] và dựa trên nguyên tắc này BLTTDS năm 2015 đã quy định nguyên tắc giài quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng[7], bao gồm, áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng. Về án lệ, trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đã có án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua ngày 06/04/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/04/2016 của Chánh án TANDTC. Trong đó quy định rằng: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.”[8]. Đây là vấn đề rất thực tế gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử các vụ việc tranh chấp về tài sản khi ly hôn. Luật HNGĐ năm 2014 và các văn bản Luật trước đây cũng không có quy định nào cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Do đó, khi án lệ này được thông qua có thể coi đây là một nguồn để các Tòa án sử dụng để giải quyết các vụ việc tương tự. Tuy nhiên, nếu trên thực tế cũng có những vụ việc xảy ra tương tự như trên, chỉ khác là quyền sử dụng đất đó chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho người vợ hoặc người chồng mà vẫn đứng tên cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ thì có áp dụng án lệ này để xác định là tài sản chung của vợ chồng hay không? Trong phần tóm tắt nội dung án lệ nêu trên có đoạn là “đã tiến hành kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…”, vậy, đây có được coi là một điều kiện bắt buộc để xác định đó là tài sản chung của vợ chồng người con hay không? Theo quan điểm của chúng tôi, không nên coi đây là điều kiện bắt buộc, bởi vì trên thực tế hiện nay, cán bộ địa chính sẽ không bao giờ tiến hành thực hiện việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng nếu không có hợp đồng tặng cho tài sản của bố mẹ. Do đó, chỉ cần điều kiện “cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định…” là đủ. Đây cũng là cơ sở pháp lý để sau này khi sửa đổi, bổ sung Luật nội dung thì có thể xây dựng thành một quy phạm mới, điều chỉnh kịp thời và áp dụng pháp luật dễ dàng để giải quyết các tranh chấp về tài sản khi ly hôn.

Tựu chung lại, để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các vụ việc hôn nhân và gia đình cũng như dễ dàng, thuận lợi trong việc áp dụng pháp luật thì các văn bản hướng dẫn cần có sự bổ sung, sửa đổi kịp thời các vấn đề còn vướng mắc, bất cập, thiếu hụt./.

[1] Điều 101 khoản 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[2] Điều 99 khoản 1 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[3] Điều 97 khoản 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[4] Điều 98 khoản 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[5] Điều 28, 29 Bộ luật tố tụng năm 2015

[6] Điều 4 khoản 2 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

[7] Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

[8] Trích án lệ số 3 trong quyết định số 220/QĐ-CA về việc công bố án lệ của Toà án nhân dân tối cao ngày 6/4/2016.

PGS.TS. NGUYỄN THỊ LAN (ĐH Luật Hà Nội)