Một Chánh án tự tử để bảo toàn danh dự - Kỳ 2: Chánh án TANDTC vừa kháng nghị theo hướng hủy Quyết định tái thẩm vụ án liên quan đến Thẩm phán Hán Văn Nhuận

Việc Thẩm phán Hán Văn Nhuận giao cho Thư ký Quảng Thị Thái Bình tiến hành tổ chức phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải... chưa đúng quy định của BLTTDS, nhưng vi phạm này không làm sai lệch hồ sơ vụ án, không làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án, nên VKSNDCC tại Tp Hồ Chí Minh kháng nghị tái thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là không có căn cứ.

Đây là một nhận định trong Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 75/2021/KN-DS ngày  24/12/2021 của Chánh án TANDTC đối với Quyết định tái thẩm số 63/2021/DS-TT ngày 16/3/2021  của TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh, do Phó Chánh án Nguyễn Văn Du vừa ký thay Chánh án.

Quá trình giải quyết vụ án

Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2017/QĐST-DS ngày 27/6/2017, TAND huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau: Nguyên đơn bà Viên Thị Thanh Loan yêu cầu bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh, ông Nguyễn Quốc Hoàng phải trả số tiền nợ gốc là 2.900.000.000 đồng cho bà Loan và bà Loan không yêu cầu tính lãi. Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh, ông Nguyễn Quốc Hoàng đồng ý trả số tiền nợ gốc là 2.900.000.000 đồng cho bà Viên Thị Thanh Loan.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ chậm trả, quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong giai đoạn thi hành án.

Ông Nguyễn Quốc Hoàng có đơn đề nghị giám đốc thẩm Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và tố cáo cho rằng Thẩm phán, Thư ký Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ việc không đúng trình tự, thủ tục, có hành vi làm khống, ngụy tạo chứng cứ.

Ngày 26/5/2020, Cơ quan điều tra VKSNDTC có Công văn số 541/VKSTC-C1(P 5) kiến nghị VKSNDCC tại Tp Hồ Chí Minh kháng nghị tái thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2017/QĐST-DS ngày 27/6/2017 của TAND huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Tại Quyết định số 19/QĐKNTT-VKS-DS ngày 17/11/2020, Viện trưởng VKSNDCC tại Tp Hồ Chí Minh kháng nghị Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2017/QĐST-DS ngày 27/6/2017 của TAND huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, đề nghị Ủy ban Thẩm phán TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh xét xử tái thẩm hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Quyết định tái thẩm số 63/2021/DS-TT ngày 16/3/2021, Ủy ban Thẩm phán TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh xử: Chấp nhận Kháng nghị tái thẩm số 19/QĐKNTT-VKS-DS ngày 17/11/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2017/QĐST-DS ngày 27/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.

Ngày 14/10/2021, TAND tỉnh Ninh Thuận có Công văn số 359/TA-VP kiến nghị Chánh án TANDTC xem xét lại Quyết định tái thẩm số 63/2021/QĐ-TT ngày 16/3/2021 của TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh.

Ngày 20/12/2021, TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh có Công văn số 172/BC-TACC kiến nghị Chánh án TANDTC xem xét hủy Quyết định tái thẩm số 63/2021/QĐ-TT ngày 16/3/2021 của TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh; giữ nguyên Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2017/QĐ-ST ngày 27/6/2017 của TAND huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Nhận định

Trong phần Xét thấy, Quyết định kháng nghị nêu rõ: Bà Viên Thị Thanh Loan và bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh cùng xác nhận khoảng cuối năm 2015 bà Oanh vay tiền bà Loan, nhưng không có khả năng trả, nên ngày 30/6/2016, bà Oanh viết giấy mượn bà Loan 3.000.000.000 đồng (mục đích để đáo hạn Ngân hàng), bà Oanh giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Oanh và chồng là ông Nguyễn Quốc Hoàng cho bà Loan để làm tin. Bà Loan cho rằng vợ chồng ông Hoàng, bà Oanh cùng vay số tiền 3.000.000.000 đồng, nên khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Hoàng, bà Oanh cùng trả nợ. Ông Hoàng xác định việc vay nợ là cá nhân bà Oanh vay, khi bà Loan đến đòi nợ, ông Hoàng mới biết. 

Ngày 12/6/2017, TAND huyện Ninh Phước thụ lý vụ án. TAND huyện Ninh Phước đã triệu tập bà Loan, bà Oanh, ông Hoàng đến làm việc vào ngày 16/6/2017. Vào ngày 16/6/2017, chỉ có bà Loan, bà Oanh có mặt, còn ông Hoàng vắng mặt. Tại buổi làm việc ngày 16/6/2017, bà Oanh viết bản tự khai đồng ý trả bà Loan 2.900.000.000 đồng, đồng thời Thư ký Quảng Thị Thái Bình đã giải thích cho bà Loan, bà Oanh biết về nội dung hòa giải, bà Oanh đồng ý với nội dung hòa giải, nên đã ký vào Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành (khi đó chưa đề ngày). Ngày 19/6/2017, Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước triệu tập bà Loan, bà Oanh, ông Hoàng đến làm việc. Tại buổi làm việc ngày 19/6/2017, có mặt bà Loan, ông Hoàng, còn bà Oanh vắng mặt.

 Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19/6/2017 thể hiện ông Hoàng khai: “Tôi và vợ tôi Nguyễn Thị Ngọc Oanh có mượn vài lần đến nhà bà Viên Thị Thanh Loan mượn tiền để thực hiện việc đáo hạn Ngân hàng sau này vợ tôi là bà Oanh đến nhà bà Loan xin vay số tiền là 3.000.000.000 đồng và dùng sổ đỏ hiện nay đứng tên tôi Nguyễn Quốc Hoàng làm tín chấp để vay tiền bà Loan. Thời điểm vợ tôi bà Oanh vay 3.000.000.000 đồng tôi không trực tiếp đến vay, tôi không biết, sau này vỡ nợ bà Loan đến đòi nợ thì tôi biết được vợ tôi bà Oanh có vay tiền của bà Loan là 3.000.000.000 đồng. Nay bà Loan khởi kiện vợ chồng tôi đòi số nợ là 3.000.000.000 đồng thì tôi xác nhận vợ chồng tôi có nợ số tiền nêu trên của bà Loan. Nay vợ chồng tôi Nguyễn Quốc Hoàng, Nguyễn Thị Ngọc Oanh đồng ý trả số tiền nợ là 3.000.000.000 đồng cho bà Viên Thị Thanh Loan. Hiện nay vợ tôi đã trả được 100.000.000 đồng nên số nợ nêu trên hiện nay vợ chồng tôi còn nợ bà Loan là 2.900.000.000 đồng. Vợ chồng tôi đồng ý trả số nợ 2.900.000.000 đồng cho bà Loan. Ông Hoàng cho rằng ông chỉ khai đoạn từ “Tôi và vợ tôi… đến … thì tôi biết được”, đoạn còn lại là do Thư ký Quảng Thị Thái Bình viết thêm.

Thư ký Quảng Thị Thái Bình thừa nhận có viết thêm đoạn từ “Hiện nay vợ tôi đã trả được 100.000.000 đồng nên số nợ nêu trên hiện nay vợ chồng tôi còn nợ bà Loan là 2.900.000.000 đồng. Vợ chồng tôi đồng ý trả số nợ 2.900.000.000 đồng cho bà Loan”. Cùng ngày 19/6/2017, Thư ký Quảng Thị Thái Bình tiếp tục lập Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành trên cơ sở Biên bản đã lập từ ngày 16/6/2017 với sự chứng kiến của bà Loan, ông Hoàng.

Xét về nội dung Biên bản lấy lời khai của ông Hoàng nêu trên nếu chỉ có đoạn “Tôi và vợ tôi … đến … thì tôi biết được” thì thấy ông Hoàng cũng thừa nhận đã nhiều lần cùng bà Oanh đến vay tiền của bà Loan để đáo nợ Ngân hàng. Ông Hoàng chỉ không thừa nhận biết bà Oanh vay 3.000.000.000 đồng và cùng chịu trách nhiệm trả nợ với bà Oanh. Tuy ông Hoàng không thừa nhận có đoạn từ “vợ tôi bà Oanh … cho bà Viên Thị Thanh Loan”, nhưng lời khai này của ông Hoàng lại phù hợp với Biên bản hòa giải ngày 19/6/2017 và Biên bản hòa giải thành ngày 19/6/2017 (BL 24, 26) đã có chữ ký của bà Loan và vợ của ông Hoàng là bà Oanh cùng có nội dung ông Hoàng xác nhận vợ chồng ông Hoàng có nợ bà Loan số tiền 3.000.000.000 đồng và đồng ý trả bà Loan số tiền trên. Ông Hoàng thừa nhận chữ ký trong Biên bản hòa giải và Biên bản hòa giải thành đúng là chữ ký của ông Hoàng.

Như vậy, xét về bản chất vụ án, vợ chồng ông Hoàng, bà Oanh có vay tiền của bà Loan, có thừa nhận nợ, có xác nhận sẽ trả nợ, nên Tòa án cấp sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là đúng bản chất của vụ án.

Sau khi ông Hoàng có đơn tố cáo cho rằng Thẩm phán, Thư ký tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ việc không đúng trình tự thủ tục, có hành vi làm khống, ngụy tạo chứng cứ, Cơ quan điều tra VKSNDTC đã thu thập chứng cứ và kiến nghị VKSNDCC tại Tp Hồ Chí Minh kháng nghị tái thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị tái thẩm số 19/QĐKNTT-VKS-DS ngày 17/11/2020, VKSNDCC tại Tp Hồ Chí Minh đã nhận định: “Trong quá trình giải quyết vụ án, Thư ký Quảng Thị Thái Bình đã có hành vi ghi thêm lời khai của ông Nguyễn Quốc Hoàng vào biên bản ngày 19/6/2017 và lập khống các biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 19/6/2017, Biên bản hòa giải ngày 19/6/2017 và Biên bản hòa giải thành ngày 19/6/2017. Thẩm phán Hán Văn Nhuận dù không có mặt, chủ trì các phiên họp nhưng đã ký khống vào các biên bản phiên họp trên và Biên bản hòa giải thành không được gửi cho ông Hoàng, bà Oanh trong ngày 19/6/2017. Việc tổ chức phiên họp, phiên hòa giải là không đúng theo quy định tại các Điều 209, Điều 210 và Điều 211 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự cũng không được giao cho ông Hoàng theo đúng quy định tại Điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Thẩm phán Hán Văn Nhuận và Thư ký Quảng Thị Thái Bình đã không thực hiện đúng các quy định về thủ tục tố tụng, cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án và ra Quyết định trái pháp luật dẫn đến Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2017/QĐST-DS ngày 27/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận không thể hiện đúng ý chí tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ”, nên đã kháng nghị tái thẩm đối với quyết định công nhận sự thỏa thuận số 14/2017/QĐST-DS ngày 27/6/2017 của TAND huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Xét thấy, theo quy định tại Điều 351 BLTTDS năm 2015 thì: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó”; và khoản 3 Điều 352 quy định căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm như sau: “Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây: (3). Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật”.

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện Thẩm phán Hán Văn Nhuận, Thư ký Quảng Thị Thái Bình tiến hành thủ tục tố tụng chưa chính xác, nhưng việc Thư ký Quảng Thị Thái Bình ghi thêm vào Biên bản lấy lời khai của ông Hoàng ngày 19/6/2017 đoạn từ “Hiện nay … cho bà Loan” không làm thay đổi bản chất vụ án. Đồng thời, cũng không có việc Thư ký Quảng Thị Thái Bình lập khống Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành ngày 19/6/2017 mà việc lập Biên bản hòa giải ngày 19/6/2017 bắt nguồn từ việc Thư ký Quảng Thị Thái Bình lập từ ngày 16/6/2017, nội dung như lời trình bày của bà Loan, bà Oanh tại bản tự khai của bà Loan đề ngày 12/6/2017, bản tự khai của bà Oanh đề ngày 16/6/2017. Thời điểm đó bà Loan, bà Oanh cùng có mặt và đã ký Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành nhưng Thư ký Quảng Thị Thái Bình chưa đề ngày. Đến ngày 19/6/2017, Thư ký Quảng Thị Thái Bình lấy lời khai của ông Hoàng và lập Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành trên cơ sở đã có ý kiến của bà Loan, bà Oanh và Thư ký Quảng Thị Thái Bình đề ngày 19/6/2017 tại Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành. Ông Hoàng đã được đọc nội dung bà Loan, bà Oanh đã thỏa thuận trước đó và có ý kiến, Thư ký tiếp tục ghi ý kiến của ông Hoàng vào biên bản, sau đó ông Hoàng đã ký Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành và không có ý kiến phản đối nội dung các đương sự đã trình bày.

Căn cứ vào Điều 212 khoản 3 của BLTTDS năm 2015 thì: “Trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 210 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản”. Như vậy, tại buổi hòa giải ngày 16/6/2017 tuy vắng mặt ông Hoàng, nhưng ông Hoàng đã được mời đến trụ sở Tòa án hòa giải ngày 19/6/2017, Tòa án hòa giải có mặt bà Loan, ông Hoàng, ông Hoàng đã biết nội dung Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành và đã ký vào Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành, nên không có căn cứ cho rằng Thư ký đã ngụy tạo Biên bản hòa giải, Biên bản hòa giải thành cùng ngày 19/6/2017.

Việc Thẩm phán Hán Văn Nhuận giao cho Thư ký Quảng Thị Thái Bình tiến hành tổ chức phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải, lấy lời khai của đương sự chưa đúng quy định tại các Điều 48, 51, 98, 208, 209 của BLTTDS, nhưng vi phạm này không làm sai lệch hồ sơ vụ án, không làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án, nên VKSNDCC tại Tp Hồ Chí Minh kháng nghị tái thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2017/QĐST-DS ngày 27/6/2017 của TAND huyện Ninh Phước, giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm là không có căn cứ. TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của VKSNDCC tại Tp Hồ Chí Minh là không đúng, nếu giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm cũng không làm thay đổi bản chất của việc bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh và ông Nguyễn Quốc Hoàng có nghĩa vụ trả nợ bà Viên Thị Thanh Loan.

Vì các lẽ trên, Chánh án TANTC quyết định:

Kháng nghị đối với Quyết định tái thẩm số 63/2021/DS-TT ngày 16/3/2021 của TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn là bà Viên Thị Thanh Loan với bị đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh, ông Nguyễn Quốc Hoàng.

Đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định tái thẩm nêu trên; giữ nguyên Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2017/QĐST-DS ngày 27/6/2017 của TAND huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Tạm đình chỉ thi hành Quyết định tái thẩm nêu trên của Ủy ban Thẩm phán TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh cho đến khi có Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

 

Trụ sở TAND huyện Ninh Phước, nơi ông Hán Văn Nhuận đảm nhiệm chức vụ Chánh án - Ảnh: BCA


                      

                                                                                            

NGUYỄN PHAN KHIÊM - THẾ MỸ