Giới thiệu nội dung Tạp chí Tòa án nhân dân số 07 năm 2020

Tạp chí Tòa án nhân dân số 07 năm 2020 xuất bản ngày 10 tháng 4 năm 2020. Trên số Tạp chí này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc 09 bài viết về các vấn đề, lĩnh vực mang tính thời sự nổi bật hiện nay và Án lệ số 31/2020/AL về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ là quyền tài sản.

Trong nội dung bài giới thiệu này, chúng tôi xin tóm tắt một số nội dung chính, nổi bật của các bài viết như sau:

Với bài viết: “Thẩm quyền của Tòa án theo loại việc trong giải quyết vụ án hành chính”, PGS.TS Nguyễn Minh Hằng cho rằng: “Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Tòa án là phạm vi quyền lực nhà nước được trao cho Tòa án, với nội dung là những quyền hạn cụ thể do pháp luật quy định, cho phép Tòa án được tiến hành các hoạt động tố tụng, nhằm đưa ra những phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện, trong đó, có cả phạm vi giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính. Xác định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án phải bảo đảm đúng về khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thẩm quyền theo cấp, theo lãnh thổ”. Trong bài viết này, với việc đưa ra một tình tiết sự kiện cụ thể, tác giả luận giải, bình luận về một số thẩm quyền của Tòa án theo loại việc trong giải quyết vụ án hành chính còn mâu thuẫn trong cách hiểu và áp dụng pháp luật. Từ đó, tác giả trao đổi về thẩm quyền giao thoa trong giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính nhằm tìm ra cách tiếp cận và vận dụng pháp luật thống nhất trong thực tiễn xét xử.

Trong bài viết: “Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản ở Việt Nam hiện nay” tác giả Nguyễn Tuấn Hải nêu nhận định: “Những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục quản lý tài sản phá sản và quy định về cơ chế thực hiện việc quản lý tài sản phá sản nghiêm ngặt sẽ góp phần làm cho khối tài sản phá sản không những được sử dụng một cách hợp lý, đúng pháp luật mà còn có tác dụng bảo toàn tài sản phá sản, góp phần hạn chế khả năng vì các mục đích khác nhau mà người vay nợ có thể thực hiện hành vi tẩu tán tài sản, điều đó giúp cho việc xử lý tài sản phá sản có hiệu quả cao, nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan”. Trong nội dung bào viết, tác giả đi sâu vào phân tích, đánh giá những thành công và hạn chế, tính tương thích và mức độ phù hợp của các quy định của pháp luật về hoạt động quản lý tài sản phá sản  tại Việt Nam hiện nay.

Với bài viết: “Một số ý kiến về căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi qua thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân”, các tác giả Nguyễn Thị Lê Huyền và Phan Thị Hồng đưa ra nhận định: “Nuôi con nuôi là một trong hai căn cứ pháp lý quan trọng làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Nuôi con nuôi và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Với sự kiện đăng ký nhận nuôi con nuôi, về cơ bản các chủ thể phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con tương tự như đối với quan hệ cha, mẹ và con được phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ. Tuy nhiên, điểm khác biệt của hai quan hệ pháp luật này là pháp luật không thể quy định các căn cứ làm chấm dứt quan hệ cha, mẹ và con về mặt huyết thống nhưng quan hệ cha, mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện nhận nuôi con nuôi thì có thể chấm dứt. Mặc dù Luật Nuôi con nuôi đã quy định rõ căn cứ của việc chấm dứt nuôi con nuôi, đồng thời Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm chấm dứt quan hệ cha, mẹ nuôi và con nuôi. Song, trên cơ sở nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật cũng như thực tiễn giải quyết của Tòa án đối với quan hệ này cho thấy, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập nhất định như sự thiếu thống nhất giữa Luật Nuôi con nuôi và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 trong một số quy phạm pháp luật; căn cứ mà Tòa án nhân dân viện dẫn để giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi trong một số trường hợp chưa phù hợp pháp luật…” Trong phạm vi bài viết này, các tác giả thông qua thực tiễn giải quyết của Tòa án, tập trung làm rõ thực trạng pháp luật về việc chấm dứt quan hệ cha, mẹ nuôi và con nuôi và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật đối với quan hệ pháp luật này.

Trong bài viết: “Một số ý kiến về trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, tác giả Châu Thanh Quyền và Nguyễn Thị Thu Trang cho rằng: “Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự là bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được quy định tại Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau nguyên đơn lại rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Thế nhưng, thực tiễn xét xử vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau, do đó, đòi hỏi cần phải có cách hiểu và áp dụng pháp luật một cách thống nhất, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Nhà nước.” Trong bài viết này, các tác giả tập trung phân tích về quy định đối với trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, từ đó nêu ra các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị cụ thể.

Thừa kế là một chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự 2015. Chế định này góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào quan hệ thừa kế, làm căn cứ cho Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến thừa kế. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp, việc giải quyết các vụ án liên quan đến thừa kế không phải lúc nào cũng có thể giải quyết được một cách “thấu tình đạt lý” do thừa kế liên quan đến nhiều mối quan hệ như: quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con đẻ, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, quan hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế… Mặc dù pháp luật đã có quy định về quan hệ thừa kế giữa những người này với nhau nhưng việc hiểu và áp dụng những quy định này trong việc giải quyết phân chia di sản thừa kế trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập về cả lý luận và thực tiễn. Hiện tại, các Tòa án vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng các quy định pháp luật thừa kế để giải quyết các vụ án liên quan do cách hiểu và áp dụng các quy định này còn chưa thống nhất, dẫn đến tình trạng nhiều vụ án vẫn bị kháng nghị và hủy án để xét xử lại với các lý do như: xác định di sản thừa kế, người thừa kế không đầy đủ hoặc không đúng; xác định quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng không chính xác… Điều đó đặt ra yêu cầu về mặt lý luận cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật về thừa kế để phù hợp với thực tiễn cuộc sống, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án về thừa kế.

Với bài viết: “Bàn về vấn đề thừa kế và thừa kế thế vị giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”, tác giả Nguyễn Viết Giang bằng việc nêu ra một số tình huống cụ thể liên quan đến vấn đề thừa kế và thừa kế thế vị liên quan đến mối quan hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế, qua đó phân tích những bất cập trong các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về vấn đề này, từ đó đưa ra hướng khắc phục những bất cập này.

Cũng trên chuyên mục Diễn đàn, Tạp chí Tòa án nhân dân còn đăng tải bài viết: “Những tồn tại, hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về hình phạt tiền và kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Lê Minh Tùng và Nguyễn Ngọc Kim Cương và bài viết: “Một số vướng mắc, bất cập và đề xuất, kiến nghị đối với quy định tại Điều 325 Bộ luật Hình sự năm 2015” của tác giả Lê Thị Hòa.

Trên chuyên mục Trao đổi ý kiến, Tạp chí Tòa án nhân dân tiếp tục đăng tải các bài viết trao đổi về các tình huống cụ thể, gồm: bài viết: “Nguyễn Văn M phạm tội gì?” của tác giả Trần Văn Mười và bài viết: “Trao đổi bài viết: “Các bị cáo phạm tội theo khoản 1 hay khoản 2 Điều 244 Bộ luật Hình sự năm 2015”.  

          Trân trọng kính mời Quý độc giả đón đọc Tạp chí Tòa án nhân dân số 07 năm 2020!