Công dân khởi kiện vì cho rằng bị giả mạo hồ sơ chiếm đoạt tài sản

Ông Phạm Xuân Khai (sinh năm 1938, phường Thanh Bình, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng) cho rằng bản thân bị kẻ xấu giả danh để chiếm đoạt lô đất tái định cư nên đã gửi đơn tố cáo đến Công an Tp Đà Nẵng.

Qua quá trình điều tra, CQCSĐT Công an Đà Nẵng cho rằng nội dung tố cáo của ông Khai là không có cơ sở, không có dấu hiệu phạm tội. Mặt khác, sự việc ông tố cáo xảy ra ngày 26/2/2002, nhưng đến ngày 24/7/2018 ông mới có Đơn tố cáo nên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Không bằng lòng với kết luận của Công an, ngày 12/7/2019, ông Khai đã gửi Đơn khởi kiện đến Tòa án để đòi lại công bằng.

Có hay không việc mua bán phiếu đất Tái định cư giữa ông Khai và bà Hạnh?

Ông Phạm Xuân Khai cho rằng, tại CQCSĐT, bà Đào Thị Mỹ Hạnh khai vào khoảng thời gian năm 2000, ông  Khai có đến Ban quản lý dự án đường Bạch Đằng Đông để nhận tiền đền bù và có nói chuyện với bà Hạnh, đề nghị bán lại cho bà Hạnh phiếu đất (lô đất số IIIA – 08 đường 7,5m Khu dân cư An Trung). Đến đầu năm 2001, bà Hạnh cùng chồng là ông Mai Tiến Thành đến nhà ông Khai để giao tiền theo thỏa thuận và sau đó ông Khai có ký vào giấy nhận tiền thể hiện việc ông Khai đã bán phiếu đất này cho vợ chồng bà Hạnh. Tuy nhiên, tại CQCSĐT, bà Hạnh không thể cung cấp được giấy giao nhận tiền có họ tên và chữ ký của ông Khai.

Tài liệu nhiều nghi vấn giả mạo

Thứ hai, bà Hạnh còn khai sau khi thỏa thuận mua bán xong phiếu đất, ông Khai có ký khống vào một bộ hồ sơ gồm: 01 Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất, 01 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thế nhưng, theo lời khai của ông Lê Doãn Nho (người  mua lại phiếu đất này từ bà Hạnh) lại cho biết vào ngày 31/1/2002, tại UBND phường An Hải Tây, lúc ông Nho viết tên vào hợp đồng chuyển nhượng, đơn xin chuyển nhượng (2 loại giấy tờ mà bà Hạnh cho biết ông Khai đã ký khống trước đó) và sơ đồ vị trí lô đất thì những loại giấy tờ trên vẫn chưa có chữ ký của ông Phạm Xuân Khai. Sau đó ông Nho giao 3 loại giấy tờ này lại cho ông Thành (chồng bà Hạnh) để làm việc với UBND phường An Hải Tây. Ông Nho khẳng định rằng chưa bao giờ gặp ông  Khai và chưa từng thấy ông  Khai ký vào các giấy tờ để ra giấy CNQSDĐ U049546 (lô đất số  IIIA – 08 đường 7,5m Khu dân cư An Trung).

Thứ ba, ông Nho khai nhận đã mua lại phiếu đất mang tên Phạm Xuân Khai từ bà Hạnh. Về nguyên tắc, bà Hạnh phải chứng minh quyền được thực hiện việc mua bán phiếu lô đất tái định cư của ông Khai với ông Nho. Điều đó có nghĩa là bà Hạnh phải xuất trình với ông Nho giấy nhận tiền có chữ ký của ông Khai. Tuy nhiên, những lời khai của ông Nho về quá trình mua bán phiếu đất lại không hề nhắc đến giấy nhận tiền này?

Do đó, cần phải làm rõ nội dung liên quan đến Giấy nhận tiền vì nó là chứng cứ duy nhất chứng minh việc mua bán phiếu đất tái định cư giữa bà Hạnh và ông Khai. Ông Phạm Xuân Khai khẳng định rằng ông chưa bao giờ biết đến phiếu đất tái định cư (lô IIIA – 08 đường 7,5m Khu dân cư An Trung) và chưa bao giờ gặp mặt ông Lê Doãn Nho.

Những giấy tờ không đúng quy định

Không những lời khai của những người liên quan có sự mâu thuẫn mà những giấy tờ, thủ tục để cấp giấy CNQSDĐ cho lô đất này ra có rất nhiều điểm không đúng quy định của pháp luật.

Trong Đơn xin đăng ký đất gửi UBND phường An Hải Tây và Ban QLDA công trình đường Bạch Đằng Đông ngày 4/9/2001, số CMND của ông Phạm Xuân Khai không đúng (trong đơn là số 200185219, nhưng thực tế số CMND của ông Khai là 200185216 – PV). Hơn nữa trong phần chữ ký Người viết đơn, chỉ có chữ ký dưới phần Chồng nhưng không ghi rõ họ tên, phần ký dưới Vợ bị bỏ trống. Tương tự các loại giấy tờ như: Đơn xin đăng ký nhận quyền sử dụng đất tại khu đô thị mới Bạch Đằng Đông, Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Bên chuyển nhượng là ông Phạm Xuân Khai, bên nhận chuyển nhượng là ông Lê Doãn Nho), Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 05/02/2002 của UBND thành phố Đà Nẵng không thể hiện được tên vợ của ông Khai.

Trong khi đó, giai đoạn 2001-2002, ông Phạm Xuân Khai vẫn còn quan hệ hôn nhân với vợ là bà Nguyễn Thị Hường. Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (có hiệu lực ngày 01/01/2001) quy định: quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Do vậy, việc hồ sơ xin cấp đất được thực hiện vào ngày 04/09/2001 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 05/01/200 bởi UBND thành phố Đà Nẵng là không phù hợp với quy định của pháp luật.

Ngoài ra, việc công chứng của UBND phường An Hải Tây thời điểm tháng 01/2002 đối với Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng trái với quy định của pháp luật khi không có mặt của ông Khai vào thời điểm đó.

Một điểm đáng chú ý nữa, việc UBND thành phố Đà Nẵng cấp giấy CNQSDĐ số U049546 ngày 05/01/2002 là không đúng thẩm quyền. Căn cứ vào Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định 66/2001/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2001, UBND cấp tỉnh không còn thẩm quyền cấp giấy CNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất mà thẩm quyền cấp thuộc về UBND cấp huyện.

Những nội dung trên đây cần được làm rõ để vụ việc được giải quyết công bằng, khách quan, đúng quy định của pháp luật.

 

 Ông Phạm Xuân Khai bức xúc vì cho rằng có người mạo danh mình để lập hồ sơ khống, chiếm đoạt tài sản.

Nhóm PV - GIA LƯƠNG