Thẩm phán phải là tấm gương về độc lập, khách quan, công bằng và tận tụy

Ngày 4/7/2018, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình – Chủ tịch Hội đồng Tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia đã ký Quyết định số 87/QĐ-HĐTC ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, gồm 17 Điều. Quyết định có hiệu lực kể từ ngày ký.

Theo Bộ quy tắc ứng xử, yêu cầu chung đặt ra là Thẩm phán phải trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm, kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. Thẩm phán phải là tấm gương về độc lập, khách quan, công bằng, tận tụy và chỉ tuân theo pháp luật khi thi hành nhiệm vụ.

Chuẩn mực đạo đức

Về những chuẩn mực đạo đức cụ thể, Quy tắc yêu cầu trước hết là tính độc lập. Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán tự quyết định trên cơ sở đánh giá của mình về tình tiết vụ việc, chứng cứ và chỉ tuân theo pháp luật; giữ gìn bản lĩnh nghề nghiệp để không bị tác động từ bất kỳ sự can thiệp nào.

Thẩm phán độc lập với các thành viên HĐXX; độc lập với những người tiến hành tố tụng khác; độc lập với các yếu tố tác động từ trong nội bộ và bên ngoài Tòa án. Trái lại, Thẩm phán cũng không được can thiệp vào hoạt động tố tụng của các thành viên HĐXX và những những người tiến hành tố tụng khác.

Chuẩn mực thứ hai là sự liêm chính. Quy chế yêu cầu Thẩm phán phải liêm chính, trong sạch, thẳng thắn, trung thực. Cụ thể hơn là Thẩm phán không được lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cho mình hoặc cho người khác; không để các thành viên trong gia đình, cán bộ, công chức Tòa án dưới quyền quản lý của mình đòi hỏi hoặc nhận tiền, tài sản, những lợi ích vật chất khác từ bất kỳ ai vì lý do liên quan đến công việc mà Thẩm phán giải quyết. Để giám sát sự liêm chính, Quy tắc yêu cầu Thẩm phán phải công khai thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật.

Chuẩn mực thứ ba là sự vô tư, khách quan. Thẩm phán phải vô tư, khách quan; thực hiện nhiệm vụ một cách đúng đắn, không vì lợi ích cá nhân, không thiên vị bất cứ bên nào trong vụ việc. Thẩm phán phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét công khai tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ việc. Do đó, Thẩm phán không được có bất cứ phát biểu hay bình luận nào tại phiên tòa, phiên họp, trước công chúng hoặc truyền thông làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ việc một cách vô tư, khách quan.

Chuẩn mực thứ tư là sự công bằng, bình đẳng. Thẩm phán có trách nhiệm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng. Thẩm phán không được và không cho phép các hành vi bất bình đẳng, phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hình thức sở hữu và thành phần kinh tế của cá nhân, pháp nhân.

Tiếp đó là sự đúng mực. Trong mọi hoạt động của mình, Thẩm phán phải hành xử đúng mực, lịch thiệp, thận trọng; duy trì trật tự và sự tôn nghiêm trong quá trình tố tụng; luôn luôn thể hiện sự kiên nhẫn, nhân ái đối với bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác.

Bộ quy tắc cũng yêu cầu Thẩm phán phải tận tụy và không chậm trễ, nhằm giải quyết nhanh nhất các vụ việc được giao. Thẩm phán phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật, không để các vụ việc quá hạn luật định vì những nguyên nhân chủ quan.

Cuối cùng, đó là yêu cầu năng lực và sự chuyên cần. Thẩm phán phải thường xuyên học tập, rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm để nâng cao kiến thức pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xét xử, bản lĩnh nghề nghiệp  và khả năng chuyên nghiệp của người Thẩm phán. Thẩm phán cũng thường xuyên phải cập nhật thông tin để nắm bắt đầy đủ, kịp thời, sâu sắc về sự phát triển của pháp luật, các vấn đề quan trọng của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước trong nước và quốc tế, hỗ trợ cho việc áp dụng pháp luật đúng đắn nhất, phù hợp với lẽ phải. Cụ thể hơn, quy tắc yêu cầu Thẩm phán phải chuyên tâm thực hiện các nhiệm vụ được giao, tích cực làm việc với tinh thần “làm hết việc, không làm hết giờ”.

 

Thẩm phán TAND Tp Hà Nội – Ảnh PLO

 

Quy tắc ứng xử

Về ứng xử khi làm nhiệm vụ, Quy tắc yêu cầu Thẩm phán phải thực hiện việc giải quyết các vụ việc được phân công theo đúng quy định của pháp luật; Bảo đảm dân chủ, nghiêm minh, khách quan trong giải quyết các vụ việc; Lắng nghe, tôn trọng ý kiến của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; Giải thích, hướng dẫn và tạo điều kiện cho người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật; Tiếp xúc với cá nhân, tổ chức, cá nhân liên quan đến vụ việc mình có thẩm quyền giải quyết đúng nơi quy định; Từ chối tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật; Phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, của UBTVQH để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Những việc Thẩm phán không được làm gồm những việc pháp luật quy định công dân không được làm; Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ việc không đúng quy định của pháp luật; Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ việc;  Mang hồ sơ vụ việc hoặc tài liệu trong hồ sơ  ta khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền; Tiếp xúc với bị can, bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng  trong vụ việc mình có thẩm quyền giải quyết không đúng nơi quy định;  Sách nhiễu, trì hoãn, gây khó khăn, phiền hà cho bị can, bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng; Truy ép, gợi ý khai báo không trung thực; Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật công tác của mình, của cán bộ, công chức thuộc Tòa án và cơ quan liên quan khác…

Trong ứng xử tại cơ quan, Thẩm phán phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được phân công và chịu trách nhiệm về các quyết định của mình; Giữ gìn sự đoàn kết trong đơn vị; Tích cực phòng chống tham nhũng; Chấp hành quyết định hành chính của người lãnh đạo; Chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật, quy định, quy chế của cơ quan; Ứng xử có văn hóa, tôn trọng lãnh đạo và đồng nghiệp.

Những việc Thẩm phán không được làm tại cơ quan là thực hiện không đúng thẩm quyền; đùn đẩy trách nhiệm; trù dập, lợi dụng ý kiến góp ý phê bình để làm tổn hại uy tín, danh dự người khác.

Quy tắc còn có riêng quy định về ứng xử với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và thông tấn, báo chí. Theo đó, Thẩm phán chỉ phát ngôn, cung cấp thông tin, tài liệu về xét xử, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và cơ quan thông tấn, báo chí khi được cấp lãnh đạo có thẩm quyền phân công. Khi chưa có bản án, quyết định, Thẩm phán không được phát biểu công khai quan điểm của mình về giải quyết vụ việc. Thẩm phán không được cung cấp bản án, quyết định cho cơ quan thông tấn, báo chí và các tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp pháp luật quy định. Thẩm phán có thể tham gia trả lời phỏng vấn, khảo sát dựa trên kinh nghiệm công tác chuyên môn để phục vụ nghiên cứu khoa học khi hoạt động này không gây ảnh hưởng đến giải quyết vụ việc.

Tại nơi cư trú, Thẩm phán phải thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, đường lối chính sách của Đảng đến nhân dân. Thẩm phán không được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi cư trú; không tham gia, xúi giục, kích động, bao che các hành vi trái pháp luật.

Trong gia đình, Thẩm phán phải xây dựng gia đình văn hóa; không được để các thành viên trong gia đình lợi dụng danh nghĩa Thẩm phán để vụ lợi. Thẩm phán không được tổ chức cưới hỏi, ma chay, mừng thọ, sinh nhật, tân gia xa hoa, lãng phí hoặc để vụ lợi.

Ngoài ra, Quy tắc còn có những quy định về ứng xử với các cá nhân, tổ chức nước ngoài; ứng xử tại nơi công cộng; ứng xử với các hoạt động ngoài nhiệm vụ xét xử.

THÁI VŨ