Bị hủy án do xác định sai phần trách nhiệm dân sự phải bồi thường

Bị cáo dùng nhiều thủ đoạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, nhưng các cán bộ tín dụng của ngân hàng, bị kết án về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”, cũng bị buộc bồi thường thiệt hại cho ngân hàng cùng với bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bản án đã bị kháng nghị.

Lừa đảo bằng vay tiền ngân hàng

Trần Thị Bạch H là chủ doanh nghiệp TN, trong quá trình kinh doanh bị thua lỗ. Tháng 8/2009, lợi dụng quan hệ quen biết với một số cán bộ Ngân hàng VA Chi nhánh CT, thông qua hoạt động cho vay, H đã nhận thế chấp quyền sử dụng đất của nhiều người; yêu cầu những người thế chấp ký ủy quyền hoặc chuyển nhượng cho nhiều người khác do H thuê đứng tên để những người này tiếp tục thế chấp vào ngân hàng vay tiền theo yêu cầu của H. Sau khi giải ngân, những người do H thuê đứng tên vay đều phải giao tiền lại cho H sử dụng vào mục đích cá nhân. Sau khi vay được tiền, H viện cớ hoàn tất thủ tục sang tên để mượn lại các GCNQSDĐ; rồi sử dụng các giấy này tiếp tục thế chấp để vay tiền ở nơi khác, chuyển nhượng cho người khác. Ngoài ra, để thực hiện mục đích chiếm đoạt tài sản, H còn làm giả Giấy đăng ký xe ô tô và mang đi cầm cố. Tổng số tiền H đã chiếm đoạt của Ngân hàng VA và các tổ chức, cá nhân khác là 64.259.800.475 đồng và 600 chỉ vàng SJC.

Trần Thị Kim L biết rõ các tài sản thế chấp cho Ngân hàng do H nhận cầm cố, thế chấp của người khác, không phải H nhận chuyển nhượng và H cũng không có quyền định đoạt đối với các tài sản này, nhưng vẫn tích cực giúp sức cho H trong việc chiếm đoạt khoản tiền 4.270.000.000 đồng của Ngân hàng VA và 2 tỷ đồng của ông Trần Văn M.

Nguyễn Minh B, Nguyễn Ngọc Nguyên Kh, Nguyễn Hương G và Châu Thùy D là cán bộ tín dụng thuộc Phòng giao dịch AN và AP của Ngân hàng VA Chi nhánh CT, biết rõ những quy định về nghiệp vụ, tài chính, tín dụng nhưng khi lập các hợp đồng thế chấp, cho vay, đã không thẩm định thực tế nguồn gốc, giá trị tài sản thế chấp, định giá tài sản thế chấp không có căn cứ, nhận tài sản thế chấp khi chưa làm thủ tục sang tên, chưa công chứng việc thế chấp và đăng ký giao dịch đảm bảo, không mua bảo hiểm, cho vay vượt mức quy định, không tra cứu CIC, bất động sản là đất nông nghiệp không có lối vào nhưng vẫn cho giải ngân; đồng thời, cho Trần Thị Bạch H mượn lại tài sản thế chấp khi chưa giải chấp. Các bị cáo này đã vi phạm quy định về cho vạy trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, gây thiệt hại cho Ngân hàng VA Chi nhánh CT số tiền 45.624.282.545 đồng và 600 chỉ vàng SJC.

Hành trình tố tụng

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2014/HSST ngày 01/10/2014, TAND thành phố CT áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; khoản 3 Điều 267; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 50 BLHS, xử phạt Trần Thị Bạch H tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 4 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”; tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là tù chung thân; áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53 BLHS, xử phạt Trần Thị Kim L 7 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; áp dụng khoản 3 Điều 179; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS, xử phạt Nguyễn Hương G 17 năm tù, Nguyễn Minh B 12 năm tù về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”; áp dụng khoản 3 Điều 179; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53 BLHS, xử phạt Châu Thùy D 6 năm tù, Nguyễn Ngọc Nguyên Kh 5 năm tù về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.

Về trách nhiệm dân sự, áp dụng Điều 42; các điều 122, 127, 325, 343, 350, 604, 605, 616, 717, 719 BLDS; các điều 300, 301, 302 Luật Thương mại; các điều 91, 95 Luật Tín dụng, buộc các bị cáo cùng liên đới bồi thường thiệt hại cho Ngân hàng VA, cụ thể như sau: Trần Thị Bạch H phải bồi thường trước và bồi thường toàn bộ vốn lẫn lãi là 107.419.332.077 đồng và 849,838 chỉ vàng SJC; Trần Thị Kim L phải bồi thường trong khoản 4.270.000.000 đồng sau khi H hết khả năng bồi thường; Nguyễn Minh B, Nguyễn Ngọc Nguyên K bồi thường trong khoản 14.324.470.353 đồng và 849,838 chỉ vàng SJC khi H hết khả năng bồi thường; Nguyễn Phương G, Châu Thùy D bồi thường trong khoản 93.094.861.724 đồng sau khi H hết khả năng bồi thường; Nguyễn Phương G phải bồi thường riêng khoản 3.135.000.000 đồng sau khi H hết khả năng bồi thường. Ngoài ra, Trần Thị Bạch H còn phải bồi thường cho các tổ chức, cá nhân khác số tiền 3.810.039.000 đồng.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Trần Thị Bạch H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giảm nhẹ trách nhiệm dân sự; Nguyễn Minh B, Trần Thị Kim L, Nguyễn Phương G, Châu Thùy D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 317/2015/HSPT ngày 28/5/2015, của Tòa phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Thị Bạch H, Trần Thị Kim L, Nguyễn Minh B, Châu Thùy D, giữ nguyên quyết định về hình phạt tại Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên đối với các bị cáo này. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Phương G, áp dụng khoản 3 Điều 179; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS, xử phạt Nguyễn Phương G 15 năm tù về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.

Chấp nhận kháng cáo của Trần Thị Bạch H, Châu Thùy D, sửa Bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, áp dụng Điều 42 BLHS; Điều 76 BLTTHS; Điều 122, 127, 137 BLDS, buộc các bị cáo liên đới bồi thường cho Ngân hàng VA Chi nhánh CT số tiền 45.624.282.545 đồng và 600 chỉ vàng SJC, cụ thể:

Trần Thị Bạch H phải bồi thường trước và bồi thường toàn bộ số tiền và vàng nêu trên; Trần Thị Kim L liên đới bồi thường 4.270.000.000 đồng sau khi H không còn khả năng bồi thường, bị cáo G phải bồi thường trước bị cáo D; các bị cáo Nguyễn Phương G và Châu Thùy D liên đới bồi thường số tiền 35.871.682.000 đồng, khi bị cáo H không còn khả năng bồi thường; các bị cáo Nguyễn Minh B và bị cáo Nguyễn Ngọc Nguyên Kh phải bồi thường 6.617.600.545 đồng và 600 chỉ vàng SJC khi H không còn khả năng bồi thường, bị cáo B phải bồi thường trước bị cáo Kh; bị cáo Nguyễn Phương G phải bồi thường riêng khoản 3.135.000.000 đồng sau khi bị cáo H không còn khả năng bồi thường.

Bản án phúc thẩm bị kháng nghị

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/2018/KN-HS ngày 12/4/2018, Chánh án TANDTC quyết định kháng nghị đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 317/2015/HSPT ngày 28/5/2015 của Tòa án phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2014/HSST ngày 01/1/2014 của TAND thành phố CT về phần trách nhiệm dân sự của các bị cáo Trần Thị Bạch H, Trần Thị Kim L, Nguyễn Phương G, Nguyễn Minh B, Nguyễn Ngọc Nguyên Kh, Châu Thùy D để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 15/2018/HS-GĐT ngày 09/8/2018, Hội đồng Thẩm phán TANDTC quyết định hủy phần quyết định trách nhiệm dân sự của Bản án hình sự phúc thẩm số 317/2015/HSPT ngày 28/5/2015 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh và phần quyết định trách nhiệm dân sự của Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2014/HSST ngày 01/10/2014 của TAND thành phố CT để xét xử sơ thẩm lại.

Theo VKSNDTC vụ án này cần rút kinh nghiệm về việc giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hủy án để xét xử sơ thẩm lại.

Trước hết là lỗi không xác định cụ thể phần trách nhiệm dân sự phải bồi thường của các bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Khoản 1 Điều 42 BLHS năm 1999 quy định: “Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra”. Điều 616 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại; trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người, nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.”

Trong vụ án này, Trần Thị Bạch H đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng VA với số tiền là 45.624.282.545 đồng và 600 chỉ vàng; trong đó, Trần Thị Kim L giúp sức cho H chiếm đoạt 4.270.000.000 đồng của Ngân hàng VA. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc Trần Thị Kim L phải liên đới cùng Trần Thị Bạch H bồi thường số tiền 4.270.000.000 đồng là đúng. Tuy nhiên, Tòa án không căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của mỗi bị cáo đối với hậu quả gây ra để xác định cụ thể phần bồi thường của từng bị cáo. Việc Tòa án quyết định Trần Thị Kim L phải bồi thường “sau khi Trần Thị Bạch H hết khả năng bồi thường” là không đúng quy định pháp luật, gây khó khăn cho việc thi hành án.

Thứ hai là xác định trách nhiệm bồi thường dân sự không đúng quy định pháp luật. Các bị cáo Nguyễn Minh B, Nguyễn Ngọc Nguyên Kh, Nguyễn Phương G và Châu Thùy D bị kết án về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”, không phải là đồng phạm với Trần Thị Bạch H về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, các bị cáo này không có trách nhiệm liên đới cùng H bồi thường số tiền mà H đã chiếm đoạt của Ngân hàng VA. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên buộc các bị cáo này phải cùng Trần Thị Bạch H liên đới bồi thường cho Ngân hàng VA là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

MINH KHÔI