Lưu ý về thủ tục miễn, giảm tạm ứng án phí dân sự

Trong quá trình nghiên cứu và thực tiễn áp dụng, chúng tôi nhận thấy cần lưu ý về thủ tục miễn, giảm tạm ứng án phí dân sự đó là thủ tục làm đơn đề nghị nộp cho Tòa án có thẩm quyền kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn, giảm.

Ngày 30/12/2016, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến án phí và lệ phí Tòa án. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ra đời có ý nghĩa vô cùng quan trọng trên cơ sở kế thừa và phát huy những quy định tại Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án năm 2009, nhằm tháo gỡ những hạn chế vướng mắc, bất cập, những nội dung, quy định không còn phù hợp với thực tiễn thi hành; góp phần bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật; tạo thuận lợi trong việc áp dụng, thực hiện.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 không có điều luật nào quy định, giải thích cụ thể khái niệm về án phí dân sự; nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật, có thể hiểu: “Án phí trong vụ án dân sự là một khoản chi phí tiến hành tố tụng mà đương sự phải nộp vào ngân sách nhà nước khi kết thúc vụ án và trước khi bắt đầu quá trình giải quyết vụ án dân sự thì người khởi kiện phải nộp một khoản tiền do Tòa án tạm tính (tiền tạm ứng án phí), biên lai nộp tiền tạm ứng án phí chính là căn cứ để Tòa án tiến hành thụ lý vụ án”. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp người khởi kiện có thể thực hiện được quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm, pháp luật đã quy định những chủ thể nhất định trong những trường hợp cụ thể được pháp luật quy định có thể được miễn giảm tạm ứng án phí. Cụ thể, khi thuộc các trường hợp sau thì người khởi kiện được miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí:

a) Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật;

b) Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự;

c) Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

d) Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín;

đ) Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ.” (Điều 12 Nghị quyết 326) và khi thuộc vào những trường hợp sau thì người khởi kiện được giảm nộp một phần tiền tạm ứng án phí, án phí đối với những trường hợp sau: “Người gặp sự kiện bất khả kháng dẫn đến không có đủ tài sản để nộp tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú thì được Tòa án giảm 50% mức tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án mà người đó phải nộp (Điều 13 Nghị quyết 326).

Thủ tục thực hiện việc miễn giảm tiền tạm ứng án phí tại khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326 quy định: Người đề nghị được miễn, giảm tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án thuộc trường hợp quy định tại Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết này phải có đơn đề nghị nộp cho Tòa án có thẩm quyền kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn, giảm. Điều này đồng nghĩa nếu thuộc trường hợp được miễn, giảm nộp tiền tạm ứng án phí Tòa án quy định tại Điều 12, 13 Nghị quyết thì người đề nghị bắt buộc phải có đơn đề nghị. Như vậy, Nghị quyết 326 đã coi căn cứ “đơn đề nghị miễn giảm tạm ứng án phí” là điều kiện bắt buộc để người khởi kiện có thể được xem xét miễn giảm tạm ứng án phí.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 195 BLTTDS 2015 thì: “Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo”, tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện ở đây được hiểu bao gồm: tài liệu, chứng cứ chứng minh có nội dung yêu cầu khởi kiện là có căn cứ (có ý nghĩa góp phần quyết định kết quả giải quyết vụ án) và tài liệu, chứng cứ chứng minh người khởi kiện đủ điều kiện khởi kiện (có ý nghĩa xác định người khởi kiện cso đủ điều kiện khởi kiện); do đó tài liệu, chứng cứ này không được hiểu bao gồm các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn, không phải nộp tạm ứng án phí, và thực tế áp dụng tại các Tòa án đều chứng minh, nếu người khởi kiện thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tạm ứng án phí thì khi nhận đơn khởi kiện Tòa án sẽ thụ lý ngay, ngày thụ lý là ngày mà người khởi kiện nộp đơn khởi kiện.

Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu sau khi thụ lý vụ án, người khởi kiện không làm đơn đề nghị được miễn tiền tạm ứng thì sẽ giải quyết như thế nào? Bởi vì, việc làm đơn đề nghị theo quy định của Nghị quyết 326 là yêu cầu bắt buộc để được xem xét miễn tiền tạm ứng án phí. Ý nghĩa của vấn đề này rất quan trọng bởi, khi Tòa án đã thụ lý mà người khởi kiện không làm đơn đề nghị đồng nghĩa với việc không đủ điều kiện để được miễn tiền tạm ứng án phí. Như vậy Tòa án đã thụ lý đơn khởi kiện mà người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí (đây là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo Điều 29 công văn 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của TANDTC giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng).

Để làm rõ hơn về nội dung này, chúng tôi xin đưa ra một ví dụ sau: A làm đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu B bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm. Vụ việc này thuộc trường hợp miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326. Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 4 Điều 195 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án phải thụ lý ngay khi nhận được đơn khởi kiện của A. Khi thụ lý xong, Tòa án có yêu cầu A phải làm đơn đề nghị miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí nhưng A không làm thì phải giải quyết như thế nào? Bởi khi A không làm đơn đề nghị miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí thì A không đủ điều kiện để được miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí. Như vậy, hầu hết các vụ án hiện nay nếu không có đơn đề nghị của người được miễn, người không phải nộp tạm ứng án phí, án phí Tòa án được lưu trong hồ sơ mà Tòa án thực hiện việc miễn, không yêu cầu nộp, giảm tạm ứng án phí, án phí Tòa án thì đối chiếu với Công văn 16/1999 thì đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Nội dung này cần được nghiên cứu, áp dụng một cách thận trọng không chỉ đối với việc xem xét đối với tạm ứng án phí dân sự còn đối với thủ tục miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án để tránh việc bị hủy, sửa.

 

Tòa án tỉnh Bình Dương  xét xử vụ kiện đòi bồi thường - Ảnh: Lê Na

 

Ths. NGUYỄN THỊ VÂN TRANG (TAND tỉnh Bắc Ninh), Ths. TRƯƠNG THỊ TỐ UYÊN (TAND Tp Hải Dương, tỉnh Hải Dương)