Xét giảm lần đầu xuống tù có thời hạn đối với người đang chấp hành án phạt tù chung thân

Sau khi nghiên cứu bài “Không trừ thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu xuống tù có thời hạn đối với người đang chấp hành án phạt tù chung thân” của tác giả Song Mai đăng ngày 24/6/2022, tôi xin trao đổi quan điểm của mình.

Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu xuống tù có thời hạn đối với người đang chấp hành án phạt tù chung thân không được trừ vào thời gian để xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 66 BLHS.

Tức là, tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất: “Thời hạn đã chấp hành 15 năm tù không bao gồm thời hạn 12 năm đã chấp hành án phạt tù trước đó khi xét giảm mức hình phạt đã tuyên theo quy định tại Điều 63 của BLHS. Do đó, người đang chấp hành án phạt tù chung thân sau khi được giảm mức hình phạt đã tuyên xuống còn 30 năm tù, phải tiếp tục thi hành án ít nhất thêm 15 năm tù mới có thể được xét tha tù trước hạn có điều kiện. Như vậy, người chấp hành án phải thi hành thực tế tổng cộng ít nhất 27 năm tù là có thể được tha tù trước thời hạn”. Xuất phát từ những lý do sau:

Thứ nhất, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 63 BLHS, 12 năm chấp hành án phạt tù trước đó là điều kiện để người đang chấp hành án phạt tù chung thân được giảm mức hình phạt đã tuyên (xét giảm từ án phạt tù chung thân xuống tù có thời hạn). Tức là thời hạn 12 năm chấp hành án phạt tù đã được áp dụng một lần trong việc giảm án từ tù chung thân xuống tù có thời hạn, do vậy, nếu tiếp tục tính 12 năm này vào thời hạn 15 năm để làm điều kiện tha tù trước thời hạn có điều kiện thì vô hình trung thời hạn 12 năm được áp dụng 02 lần cho quá trình xét giảm án và xét tha tù trước thời hạn. Điều này làm giảm mức độ răn đe của hình phạt tù chung thân đối với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như không bảo đảm tính công bằng đối với từng loại tội phạm.

Thứ hai, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 63 BLHS: “Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm”. Theo quy định này, người chấp hành hình phạt tù chung thân cần phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm. Tuy nhiên, nếu áp dụng theo quan điểm thứ hai được nêu trong bài đăng của tác giả Song Mai: “Thời hạn đã chấp hành 15 năm tù bao gồm thời hạn 12 năm đã chấp hành án phạt tù trước đó khi xét giảm mức hình phạt đã tuyên theo quy định tại Điều 63 của BLHS. Do đó, người đang chấp hành án phạt tù chung thân sau khi được giảm mức hình phạt đã tuyên xuống còn 30 năm tù, cần tiếp tục thi hành án ít nhất thêm 03 năm tù mới có thể được xét tha tù trước hạn có điều kiện. Như vậy, người chấp hành án phải thi hành thực tế tổng cộng ít nhất 15 năm tù là có thể được tha tù trước thời hạn” thì thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 15 năm tù. Điều này gây ra sự mâu thuẫn, không thỏa mãn điều kiện được nêu tại khoản 2 Điều 63 BLHS.

Thứ ba, bảo đảm sự tương đồng, công bằng giữa hình phạt tù chung thân và tù có thời hạn được quy định trong BLHS. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 38 BLHS: “Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm”. Rõ ràng, hình phạt tù chung thân là loại hình phạt nặng hơn so với phạt tù có thời hạn, do vậy, dù áp dụng theo bất kỳ quan điểm nào, cũng cần phải bảo đảm việc chấp hành án phạt tù chung thân của người phạm tội phải cao hơn hoặc bằng so với mức áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Trong trường hợp này, áp dụng theo quan điểm thứ nhất được nêu trong bài viết của tác giả Song Mai (người chấp hành án phải thi hành thực tế tổng cộng ít nhất 27 năm tù) sẽ đảm bảo được tính hài hòa giữa hình phạt tù chung thân và hình phạt tù có thời hạn.

Trên đây là nội dung trao đổi về quy định tại điểm d khoản 1 Điều 66 BLHS của tác giả, rất mong nhận được sự góp ý từ bạn đọc và đồng nghiệp.

 

Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An công bố quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đợt 30/4 năm 2022- Ảnh: Thái Hoàng

 

PHẠM THỊ LỆ XUÂN (Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 2)