Cần làm rõ mục đích từ bỏ chiếc xe của Nguyễn Thị C

Sau khi đọc bài viết “Áp dụng biện pháp tư pháp tại các Điều 47, 48 BLHS” của tác giả Huỳnh Minh Nhựt, tôi cho rằng cần làm rõ mục đích chị Nguyễn Thị C không yêu cầu Nguyễn Văn A bồi thường chiếc xe gắn máy. Trên cơ sở đó xem xét có tịch thu hay không tịch thu số tiền 3.000.000đ từ việc bị cáo Nguyễn Văn A bán chiếc xe gắn máy của chị Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn B.

- Thứ nhất, Nguyễn Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đây là tội phạm thuộc nhóm tội phạm có tính chất chiếm đoạt, nghĩa là người phạm tội chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác. Các loại tài sản trong nhóm tội này là tài sản được sử dụng, lưu hành bình thường trong xã hội. Người sở hữu hợp pháp các loại tài sản được lưu hành bình thường trong xã hội thì có quyền tự định đoạt đối với tài sản của mình. Chiếc xe gắn máy của chị Nguyễn Thị C là loại tài sản được sử dụng, lưu hành bình thường trong xã hội; mặc dù chiếc xe bị Nguyễn Văn A chiếm đoạt trái phép, nhưng chị C vẫn có quyền định đoạt về chiếc xe của mình.

Điều 194 của BLDS quy định: “Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản”. Như vậy, căn cứ quy định này thì Nguyễn Thị C có quyền yêu cầu Nguyễn Văn A trả lại chiếc xe, nếu chiếc xe không còn thì có quyền yêu cầu bồi thường giá trị tương đương chiếc xe tại thời điểm bị chiếm đoạt. Trong vụ việc này, chiếc xe có giá trị là 5.000.000đ, chiếc xe không thu hồi được sau khi Nguyễn Văn A đã bán cho Nguyễn Văn B, nên Nguyễn Thị C có quyền yêu cầu Nguyễn Văn A bồi thường 5.000.000đ. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ việc thì Nguyễn Thị C không yêu cầu Nguyễn Văn A bồi thường chiếc xe (5.000.000đ), đều này đồng nghĩa với việc Nguyễn Thị C từ bỏ quyền sở hữu hoặc tặng, cho chiếc xe (giá trị chiếc xe) cho Nguyễn Văn A.

- Thứ hai, khoản 1 Điều 48 BLHS quy định: Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra”. Theo quy định này thì Nguyễn Văn A phải trả lại cho chị Nguyễn Thị C chiếc xe hoặc giá trị tương đương chiếc xe; nhưng chị Nguyễn Thị C không yêu cầu Nguyễn Văn A bồi thường. Trường hợp này nếu Nguyễn Văn A không bán chiếc xe để lấy 3.000.000đ thì có lẽ không cần đề cập đến việc có tịch thu số tiền này hay không? Hoặc nếu chiếc xe máy vẫn còn thì việc xử lý chiếc xe máy sẽ được xử lý như thế nào? Để làm rõ vấn đề này, chúng ta tìm hiểu thêm về quy định của BLHS.

Theo đó, Điều 47 BLHS quy định: “1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với: a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội; c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành”. Vấn đề đặt ra ở đây là, số tiền 3.000.000đ có được xem là tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác vật, tiền phạm tội mà có hay không? Như đã phân tích trên, chiếc xe mà Nguyễn Văn A lấy trộm của chị Nguyễn Thị C là loại tài sản không bị cấm tàng trữ, cấm lưu hành; chiếc xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Nguyễn Thị C; nên trong trường hợp này Nguyễn Văn A có nghĩa vụ phải trả lại cho chị Nguyễn Thị C chiếc xe máy hoặc giá trị tương đương chiếc xe máy. Về nguyên tắc Nguyễn Văn A phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị C chiếc xe máy, nhưng chị Nguyễn Thị C không yêu cầu bồi thường, nên việc xử lý chiếc xe máy này có thể xảy ra hai trường hợp: có thể chị Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn A hoặc chị Nguyễn Thị C từ bỏ quyền sở hữu chiếc xe máy.

+ Nếu trong trường hợp này xác định được chị Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn A chiếc xe máy, nghĩa là không yêu cầu Nguyễn Văn A bồi thường thì Nguyễn Văn A sẽ có quyền sở hữu 3.000.000đ tiền bán chiếc xe. Vì nếu chị Nguyễn Thị C yêu cầu Nguyễn Văn A bồi thường thì Nguyễn Văn A phải có nghĩa vụ bồi thường chiếc xe tương đương giá trị 5.000.000đ; số tiền 3.000.0000đ Nguyễn Văn A bán xe được dùng để bù vào số tiền 5.000.000đ Nguyễn Văn A phải bồi thường. Nếu tịch thu số tiền 3.000.000đ thì đồng nghĩa với việc Nguyễn Văn A phải bồi thường vượt quá mức giá trị của chiếc xe và việc xử lý này gây bất lợi cho Nguyễn Văn A.

Trong trường hợp này chỉ có thể tịch thu số tiền 3.000.000đ, nếu đây là số tiền vượt quá giá trị chiếc xe tại thời điểm Nguyễn Văn A trộm cắp. Nghĩa là, nếu chiếc xe của chị Nguyễn Thị C có giá trị chỉ 3.000.000đ, nhưng Nguyễn Văn A bán được 6.000.000đ; như vậy số tiền chênh lệch 3.000.000đ được xác định là tiền do phạm tội mà có và sẽ bị tịch thu.

+ Nếu xác định được chị Nguyễn Thị C từ bỏ quyền sở hữu đối với chiếc xe, thì vấn đề đặt ra là chiếc xe máy vô chủ, như vậy số tiền 3.000.000đ từ việc bán chiếc xe máy cũng vô chủ. Như vậy, việc xử lý số tiền 3.000.000đ phải căn cứ quy định về việc xử lý tài sản vô chủ tại Điều 228 BLDS. Khoản 1 Điều 228 BLDS quy định: “1. Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước”. Như vậy, tại thời điểm xét xử, nếu chị Nguyễn Thị C từ bỏ quyền sở hữu chiếc xe thì số tiền 3.000.000đ sẽ phải tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Vì tại thời điểm này số tiền đang do “Nhà nước” quản lý.

Trên đây là quan điểm của cá nhân về vấn đề liên quan trong việc giải quyết số tiền hoặc tài sản khi chủ sở hữu không buộc bị cáo phải bồi thường, mong bạn đọc cùng bàn luận để làm rõ./.

 

Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử vụ trộm cắp tài sản - Ảnh: VKS ĐN

NGUYỄN VĂN LAM (Tòa án quân sự Quân khu 9)