Hình phạt cho bị cáo phải nằm trong khoản 4 Điều 141 BLHS

Sau khi đọc bài “Hình phạt nào cho bị cáo hiếp dâm?” của tác giả Trần Hải Phong đăng ngày 17/11/2021, chúng tôi cho rằng hình phạt của bị cáo phải nằm trong khoản 4 Điều 141 BLHS.

Thứ nhất, do bị cáo có ba tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS (thành khẩn khai báo, đã tự nguyện bồi thường cho bị hại, là con của liệt sĩ) và có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự. Theo đó, khoản 1 Điều 54 BLHS quy định: Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. Vì vậy, bị có đủ điều kiện để được xem xét áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Bị cáo thực hiện hành vi giao cấu hai lần nên thỏa mãn dấu hiệu quy định tại điểm d khoản 2 Điều 141 BLHS; do đủ điều kiện áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS nên có thể áp dụng hình phạt thấp hơn mức hình phạt 07 năm quy định tại khoản 2 Điều 141 BLHS.

Thứ hai, Điều 141 BLHS điều chỉnh hai đối tượng bị tác động, đó là người bị hại đủ 18 tuổi trở lên và người bị hại từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo đó, khoản 4 Điều 141 BLHS điều chỉnh bị hại là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; đây là khung hình phạt điều chỉnh riêng cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và là được xác định là cấu thành cơ bản của tội “hiếp dâm” đối với bị hại là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Trong khi đó, khoản 1 Điều 141 BLHS điều chỉnh đối với hành vi phạm tội đối với người bị hại từ đủ 18 tuổi trở lên và được xác định là cấu thành cơ bản của tội “hiếp dâm” khi người phạm tội xâm hại người bị hại là người đủ 18 tuổi trở lên. Khung hình phạt quy định tại khoản 1 nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại khản 2; bởi lẽ nhà làm luật xác định hành vi phạm tội xâm hại đối với người bị hại từ đủ 18 tuổi trở lên sẽ gây ra hậu quả ít nghiêm trọng hơn đối với trường hợp tội phạm xâm hại đến người bị hại từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Do vậy, khi có tội phạm xảy ra, buộc cơ quan, người tiến hành tố tụng phải xem xét, đối chiếu để xác định khung hình phạt, cũng như cấu thành cơ bản của tội phạm cho phù hợp đối với từng độ tuổi của người bị hại tương ứng.

Thứ ba, khi xem xét áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS, cần phải cân nhắc, đánh giá đúng tính chất của vụ việc và đảm bảo đúng nguyên tắc được xác định trong điều luật. Rõ ràng, khoản 1 Điều 54 BLHS quy định khi xem xét quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, thì Tòa án áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn mức thấp nhất của khung đó và mức hình phạt đó phải nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Như vậy, xem xét về cấu tạo của các khung hình phạt quy định tại Điều 141 BLHS, chúng ta thấy có 5 khoản, trong đó có 4 khoản quy định là hình hạt chính và 1 khoản quy định hình phạt bổ sung. Đối với quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 không đề cập đến độ tuổi của bị hại, nhưng chúng ta phải biết là từ đủ 16 tuổi trở lên; nhưng tại khoản 4 lại quy định giới hạn chỉ áp dụng đối với bị hại là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi; do vậy, chúng ta phải khẳng định rằng khoản 1, 2, 3 được áp dụng đối với người phạm tội xâm hại bị hại từ đủ 18 tuổi trở lên.

Tại khoản 4 Điều 141 BLHS quy định:

“Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó”.

Với cách hành văn tại khoản 4, cho thấy rõ khoản này được áp dụng cho người phạm tội xâm hại đối với bị hại là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Trong trường hợp người phạm tội xâm hại đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng có các tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2, 3 thì sẽ xem xét áp dụng và áp dụng hình phạt quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. Do khoản 4 được quy định để điều chỉnh riêng đối với bị hại là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, nên khi bị cáo có đủ điều kiện để áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS thì phải xem xét áp dụng khung hình phạt phù hợp theo nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 141 BLHS, đó là khung 4 là nhẹ nhất, khung 2 nặng hơn khung 4, khung 3 nặng hơn khung 2.

Như vậy, bị cáo phạm tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 141 BLHS, nhưng có đủ điều kiện để áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS. Theo quy định tại khoản 4 Điều 141 BLHS thì mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hai được áp dụng cho bị cáo phải nằm trong khung liền kề nhẹ hơn là khung 4. Bởi lẽ, khung 4 sẽ có mức hình phạt cao hơn khung 1; và khung 4 được điều chỉnh đối với người phạm tội xâm hại bị hại là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Khi đó mới đảm bảo được tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và thể hiện rõ việc trừng trị bị cáo đối với hành vi đã gây ra.

Tác giả Đinh Minh Lượng (Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 5) cũng nêu quan điểm cho rằng Bùi Văn M phạm tội “Hiếp dâm” theo khoản 4 Điều 141 BLHS với mức hình phạt tù từ 07 đến 15 năm và không áp dụng khoản 1 Điều 54 đối với bị cáo.

 

 

Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử bị cáo bị truy tố về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi và tội giết người - Ảnh: Ngô Thủy/ Báo CAND

 

 

NGUYỄN VĂN LAM (Tòa án quân sự Quân khu 9)