Lừa dối người mua dâm bằng chứng minh thư giả không phạm tội lừa đảo…

Qua nghiên cứu bài viết “Làm giả chứng minh thư người nổi tiếng cho gái bán dâm để lừa người mua dâm, tội gì?” của tác giả Đinh Thu Nhanh (Tòa án quân sự Quân khu 4), tôi đồng ý với quan điểm Nguyễn Văn A phạm hai tội là tội Môi giới mại dâm (Điều 328 BLHS) và tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341 BLHS).

Điều này xuất phát từ những lý do như sau:

Thứ nhất, Nguyễn Văn A đã có hành vi làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Vì vậy, hành vi này của A đã phạm vào tội Môi giới mại dâm theo quy định tại Điều 328 BLHS.

Thứ hai, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội của mình, Nguyễn Văn A đã làm giả chứng minh nhân dân của những người nổi tiếng, có tên tuổi trong giới showbiz cho những người bán dâm rồi đưa cho người mua dâm xem để được trả giá cao hơn so với những trường hợp thông thường. Như vậy, A đã có hành vi sử dụng tài liệu giả là chứng minh nhân dân của cơ quan, tổ chức thực hiện hành vi trái pháp luật (môi giới mại dâm) nên đã phạm vào tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 BLHS.

Thứ ba, có quan điểm cho rằng Nguyễn Văn A đã làm giả chứng minh nhân dân của những người mẫu nổi tiếng cho các gái bán dâm, lựa chọn các gái bán dâm có chiều cao, khuôn mặt khá tương đồng với những người mẫu nổi tiếng đó để lừa dối người mua dâm nhằm nhận giá cao hơn so với bình thường nên đã phạm vào tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS. Tôi cho rằng quan điểm đó không chính xác.

Bản chất của việc mua bán dâm là nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người mua dâm và nhu cầu kinh tế của người bán dâm. Khi thực hiện việc mua bán dâm, sau khi thỏa thuận giá cả, người mua dâm sẽ được xem xét, đánh giá, trao đổi và giao cấu với người bán dâm. Nếu phát hiện những vấn đề bất thường hoặc không ưng ý thì có quyền thay đổi giá cả đã thỏa thuận trước đó.

Trong tình huống đưa ra, Nguyễn Văn A là người môi giới có kinh nghiệm, có uy tín, làm việc với khách hàng có nhiều tiền lắm của nên hoàn toàn biết rõ vấn đề nêu trên. Vì vậy, A nhận thức được việc có thể bị xem xét lại vấn đề giá cả đã thỏa thuận trước đó khi khách hàng phát hiện ra người bán dâm không phải là người mẫu nổi tiếng như đã giới thiệu ban đầu. Việc A lừa dối người mua dâm rằng người bán dâm là người mẫu nổi tiếng chỉ là phương thức, thủ đoạn nhằm thỏa thuận được số tiền mua bán dâm cao hơn so với bình thường, người mua dâm vẫn được thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình dục của bản thân (giao cấu với người bán dâm) nên không phải là phương thức, thủ đoạn chiếm đoạt tài sản, tức A không có ý thức chiếm đoạt tài sản của những người mua dâm.

Chúng ta cũng nhận thấy trong mối quan hệ mua bán ngay thẳng, người mua và người bán đều thỏa mãn những nhu cầu của bản thân. Tuy nhiên, người bán luôn mong muốn bán với giá cao hơn để thu lợi nhiều hơn nên thường sẽ có một số thủ đoạn nhằm lừa dối người mua. Bản chất việc mua bán dâm trong trường hợp này cũng như vậy, người bán dâm, môi giới mại dâm luôn mong muốn người mua dâm trả giá cao hơn nên mới dùng thủ đoạn làm giả chứng minh nhân dân của người mẫu nổi tiếng. Đây cũng chỉ là hành vi lừa dối khách hàng để thu lợi bất chính, không phải là hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc mua bán dâm là hành vi vi phạm pháp luật nên không thuộc trường hợp điều chỉnh của tội Lừa dối khách hàng theo quy định tại Điều 198 BLHS.

Tóm lại, việc Nguyễn Văn A làm giả chứng minh nhân dân của những người mẫu nổi tiếng cho các gái bán dâm, lựa chọn các gái bán dâm có chiều cao, khuôn mặt khá tương đồng với những người mẫu nổi tiếng đó để lừa dối người mua dâm nhằm nhận giá cao hơn không phải là hành vi chiếm đoạt tài sản mà chỉ là hành vi nhằm thu lợi nhiều hơn từ việc mua bán dâm. Vì vậy, việc xác định Nguyễn Văn A phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là không chính xác.

Thứ tư, có quan điểm cho rằng Nguyễn Văn A phạm vào tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 BLHS. Đây là quan điểm không chính xác bởi: Điều 341 BLHS quy định cùng một lúc 02 tội danh là tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Theo điểm b, mục 1, Chương 10 Nghị quyết số 04/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì nếu các hành vi cấu thành nhiều tội phạm được quy định trong một điều luật nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hành vi này là điều kiện để thực hiện hành vi kia thì xử lý theo tên tội chủ yếu. Trong tình huống đưa ra, A vừa có hành vi làm giả, vừa có hành vi sử dụng nhưng hành vi sử dụng là chủ yếu vì mục đích của A là sử dụng để lừa dối người mua dâm. Vì vậy, A chỉ phạm vào tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Trên đây là quan điểm của tôi về tội danh trong vụ án này, rất mong nhận được sự trao đổi của các đồng chí và bạn đọc.

 

Hai bị cáo trong một vụ án chứa mại dâm tại Bình Chánh , TP HCM – Ảnh Minh Vương/ PLO

 

PHẠM VĂN MINH ( Công an TP. Long Khánh, Đồng Nai)