Thẩm quyền tổng hợp hình phạt tù không có vướng mắc

Sau khi nghiên cứu bài viết “Thẩm quyền tổng hợp hình phạt tù, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Đinh Minh Lượng, đăng trên Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân ngày 16/8/2020, tôi cho rằng vận dụng đúng pháp luật thì không có vướng mắc.

Tôi có quan điểm không đồng tình với quan điểm của tác giả cho rằng có vướng mắc về thẩm quyền tổng hợp hình phạt, tuy nhiên tôi đồng ý với quan điểm 1 của tác giả, ngoài những nhận định mà tác giả nêu, tôi xin bổ sung và phản biện lại đối với quan điểm của tác giả, cụ thể:

Thẩm quyền tổng hợp hình phạt tù có thời hạn của nhiều bản án được quy định tại Điều 56 BLHS năm 2015 như sau:

Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này. Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

Điều 56 BLHS năm 2015 quy định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, theo đó có ba trường hợp cần tổng hợp hình phạt và mỗi trường hợp được quy định tại một khoản của điều luật, đã quy định rõ về thẩm quyền tổng hợp hình phạt tù có thời hạn của nhiều bản án, dự liệu về quyết định hình phạt trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này hoặc đang chấp hành hình phạt thì lại phạm tội mới; hoặc trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp .

So sánh Điều 51 BLHS năm 1999 với Điều 56 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về thẩm quyền tổng hợp hình phạt tù của nhiều bản án thấy rằng không có sự thay đổi, sau 18 năm thi hành Bộ luật hình sự năm 1999, nội dung điều luật vẫn được giữ nguyên, qua đó khẳng định thực tiễn thi hành của Bộ luật hình sự thấy không có vướng mắc về thẩm quyền tổng hợp hình phạt tù, điều luật được nhà làm luật giữ nguyên, không có chỉnh sửa.

Khoản 1, 2 Điều 56 BLHS năm 2015 tuy không quy định cụ thể cho cấp Tòa án nào khi xét xử có thẩm quyền tổng hợp hình phạt của các bản án đến bao nhiêu năm tù, nhưng quy định như vậy hiểu rằng Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực có thẩm quyền tổng hợp hình phạt trên 15 năm đến 30 năm đối với tù có thời hạn mà không phụ thuộc thẩm quyền xét xử. Điều 55 BLHS đã quy định rõ: ‘‘Khi xét xử cùng một lần người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây: Đối với hình phạt chính nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 3 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn’’.

Qua ví dụ tác giả đưa ra, tôi đồng tình với quan điểm của tác giả cho rằng Tòa án nhân dân huyện N vẫn tiến hành xét xử đối với Nguyễn Đức A về tội “Cố ý gây thương tích” và tổng hợp với 08 năm tù của bản án trước, việc tổng hợp hình phạt của bản án Tòa án nhân dân huyện N đang xét xử với bản án trước đã có hiệu lực pháp luật là tổng hợp hình phạt mang tính số học, Tòa án thực hiện việc tổng hợp hình phạt theo quy định của pháp luật mà không xem xét lại nội dung, không xét xử lại vụ án đã xét xử trước. Tòa án nhân dân huyện N có thẩm quyền tổng hợp hình phạt trên 15 năm cho đến 30 năm  đối với hình phạt tù có thời hạn, kể cả trường hợp tổng hợp với bản án đã có hiệu lực của Tòa cấp trên, miễn là không vi phạm khoản 1 Điều 55 BLHS.

 Theo quy định Điều 268 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền xét xử của Tòa án, thì Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự cấp Khu vực có thẩm quyền xét xử đối với các tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng, có khung hình phạt đến 15 năm tù. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp Quân khu có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện; các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh …vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp Khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành…những tội có khung hình phạt trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Điều 271 BLTTHS 2015 quy định trường hợp: Bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên, có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp dưới thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.

Trên cơ sở thẩm quyền xét xử, thẩm quyền tổng hợp hình phạt, theo hướng dẫn Nghị quyết 02/1986 ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về tổng hợp hình phạt tù của nhiều bản án, có quan điểm cho rằng: Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử tội phạm có khung hình phạt 15 năm tù trở xuống, quyết định trong bản án cũng không được vượt quá 15 năm tù (dù là tổng hợp hình phạt của nhiều bản án). Nếu bị cáo phạm nhiều tội, xem xét khi tổng hợp hình phạt các tội trên 15 năm tù, Tòa án nhân dân cấp huyện phải báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh để rút hồ sơ lên Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử để đảm bảo không vi phạm thẩm quyền xét xử, khi tổng hợp hình phạt của các bản án. Quan điểm khác lại cho rằng: Nếu bị cáo đang chấp hành hình phạt tù bản án trước của Tòa án cấp tỉnh đã có hiệu lực pháp luật, lại phạm tội mới, Tòa án nhân dân cấp huyện vẫn xét xử tội phạm mới, quyết định hình phạt tù tại bản án sau, nhưng không tổng hợp hình phạt của 2 bản án, trường hợp này, thẩm quyền tổng hợp hình phạt thuộc về Tòa án nhân dân cấp tỉnh vì nếu tổng hợp hình hình phạt của 2 bản án sẽ vượt quá thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện. Quan điểm cá nhân cho rằng cả 02 quan điểm, cách hiểu trên đều sai, bởi vì đã đồng nhất thẩm quyền xét xử với thẩm quyền tổng hợp hình phạt,Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử loại tội đến rất nghiêm trọng với mức hình phạt đến 15 năm tù, nhưng không có nghĩa rằng Tòa án nhân dân cấp huyện không có quyền tổng hợp hình phạt tù của các bản án mà khi tổng hợp trên 15 năm tù.

Như vậy, thẩm quyền xét xử của Tòa án đã được quy định rõ ràng, không có gì vướng mắc, mâu thuẫn; tuy nhiên không nên đồng nhất thẩm quyền xét xử (Điều 268 BLTTHS) với thẩm quyền tổng hợp hình phạt (Điều 56 BLHS), mà phải tách riêng thẩm quyền xét xử với thẩm quyền tổng hợp hình phạt và thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự (Điều 364 BLTTHS). Tách riêng thẩm quyền xét xử với thẩm quyền tổng hợp hình phạt và thẩm quyền ra quyết định thi hành án mới hiểu, áp dụng đúng theo tinh thần của điều luật. Ví dụ: Nguyễn Văn K bị Tòa án quân sự Quân khu Y tuyên phạt 20 năm tù về tội ‘‘Giết người’’, quá trình chấp hành án tại trại giam, K trốn khỏi nơi giam và bị Tòa án quân sự Khu vực X Quân khu Y, xét xử về tội ‘‘Trốn khỏi nơi giam giữ’’ theo khoản 1 Điểu 386 BLHS 2015, K bị tuyên phạt 03 năm tù. Trường hợp này, Tòa án quân sự Khu vực X tiến hành xét xử K về tội ‘‘Trốn khỏi nơi giam giữ’’ và tổng hợp hình phạt 20 năm tù của bản án trước về tội ‘‘Giết người’’ cộng với 03 năm tù của bản án sau, tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Văn K phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 23 năm tù, K được trừ đi thời gian đã chấp án của bản án trước. Bản án có hiệu lực pháp luật, Chánh án Tòa án quân sự Khu vực X sẽ ra quyết định thi hành án đối với K.

Khoản 3 Điều 56 BLHS 2015 tuy không quy định rõ Chánh án Tòa án cấp nào có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án, nhưng có thể hiểu rằng tùy từng trường hợp, từng vụ án cụ thể Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự cấp Khu vực hoặc Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp Quân khu ra quyết định tổng hợp hình phạt và Tòa án cấp dưới có quyền tổng hợp hình phạt với bản án của Tòa án cấp trên. Trường hợp này hiện nay các Tòa vận dụng tinh thần của Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 20/12/1991 của TANDTC-VKSNDTC (Tại Mục 5 của Thông tư liên tịch 02/TTLT quy định: Trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật đều của cùng một Tòa án thì Chánh án Tòa án đó ra quyết định tổng hợp hình phạt; Trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp thì Chánh án Tòa án ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt; Trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án không cùng cấp thì Chánh án Tòa án cấp cao hơn ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc bản án của Tòa án cấp cao hơn có trước hay có sau; Trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án là của Tòa án nhân dân, có bản án là của Tòa án quân sự thì việc tổng hợp hình phạt cũng được thực hiện như trên…).

Trường hợp khi thụ lý Tòa án cấp huyện thấy bị cáo đã bị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình tại một bản án của Tòa án cấp tỉnh và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật,  theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 02/2010 ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Tòa án nhân dân cấp huyện phải báo cáo với Tòa án nhân dân cấp tỉnh để Tòa án nhân dân cấp tỉnh thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh rút hồ sơ vụ án lên để truy tố, xét xử ở cấp tỉnh”. Theo Hướng dẫn này nếu gặp trường hợp như trên thì Tòa án cấp huyện, phải kịp thời báo cáo Tòa án cấp tỉnh trao đổi thống nhất với Viện kiểm sát cấp tỉnh rút hồ sơ lên để truy tố, xét xử. Như vậy, trường hợp này thẩm quyền tổng hợp hình phạt đã được hướng dẫn rõ ràng không có gì vướng mắc.

Điều 56 BLHS quy định thống nhất, không có mâu thuẫn, không có vướng mắc về thẩm quyền tổng hợp hình phạt. Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp Khu vực trong các trường hợp nêu tại khoản 1, khoản 2 Điều 56 BLHS được quyền tổng hợp hình phạt của các bản án trên 15 năm đến 30 năm tù đối với hình phạt tù có thời hạn. Đối với trường hợp bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân thì không thuộc thẩm quyền tổng hợp hình phạt của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp Khu vực.

Trường hợp tác giả đưa ra: Một người bị tuyên phạt tử hình nhưng được chuyển xuống tù chung thân theo quyết định của Chủ tịch nước hoặc quyết định của Chánh án TANDTC mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án căn cứ vào (bản án tuyên tử hình, quyết định ân giảm của Chủ tịch nước hay quyết định chuyển hình phạt của Chánh án TANDTC ) để tổng hợp hình phạt. Trường hợp này, Tòa án căn cứ vào Quyết định ân giảm của Chủ tịch nước hoặc Quyết định chuyển hình phạt của Chánh án TANDTC (tùy trường hợp) để tổng hợp và quyết định hình phạt đối với người bị kết án được ân giảm, từ tử hình xuống tù chung thân nhưng lại phạm tội mới.

Tóm lại, theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 56 BLHS, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp Khu vực có thẩm quyền tổng hợp hình phạt đến 30 năm tù và có thẩm quyền tổng hợp với bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp trên, miễn là không vượt quá 30 năm đối với tù có thời hạn. Trường hợp bản án trước bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì Tòa án nhân dân cấp huyện,Tòa án quân sự cấp Khu vực phải báo cáo Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu trao đổi thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu rút hồ sơ lên để truy tố, xét xử theo thẩm quyền.

Đối với khoản 3 Điều 56 BLHS: Chánh án Tòa án có thẩm quyền tổng hợp hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, Tòa án xét xử sau cùng hoàn toàn có quyền tổng hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật chưa được tổng hợp trước đó, không phân biệt Tòa án cấp trên hay cấp dưới, Tòa án nhân dân hay Tòa án quân sự miễn là không vi phạm tổng hợp mức hình phạt chung đối với tù có thời hạn đến 30 năm tù, trừ trường hợp khi tổng hợp với bản án có hình phạt là tù chung thân hoặc tử hình thì do Tòa cấp trên tổng hợp. Hiểu và vận dụng đúng tinh thần Điều 56 BLHS về tổng hợp hình phạt sẽ thấy không có vướng mắc, tuy nhiên nếu đồng nhất thẩm quyền xét xử với thẩm quyền tổng hợp hình phạt sẽ dẫn đến áp dụng sai. Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp Khu vực không được quyền tổng hợp hình phạt đến tù chung thân hoặc tử hình, vì liên quan đến thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự, chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu mới có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình phạt tù chung thân, thành lập Hội đồng thi hành án tử hình.

Trên đây là quan điểm cá nhân của tôi đối với bài viết “Thẩm quyền tổng hợp hình phạt tù, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện” xin được trao đổi với tác giả và quý bạn đọc.

Th.s LÊ ĐÌNH NGHĨA (Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5)