Trường hợp vụ việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

Trong phạm vi bài viết này, tác giả bình luận một số vấn đề pháp lý theo Quyết định giám đốc thẩm liên quan đến: (1) Xác định sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; và (2) Hệ quả của sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi Tòa chưa thụ lý vụ án, và sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án.

Ông H là chồng đã đem thế chấp quyền sử dụng đất chung của vợ chồng tại Ngân hàng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà không có sự đồng ý của bà T là vợ nên bà T đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân (TAND) để yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng 05 lô đất vô hiệu.

Khi giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, Hội đồng Thẩm phán (HĐTP) Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã xét rằng: “Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013, TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về các nội dung sau: Công ty T thanh toán số tiền 2.461.590.471 đồng cho Ngân hàng Đ vào ngày 02-10-2013; trong trường hợp Công ty T không trả được nợ, phát mãi tài sản bảo lãnh là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền đối với 05 lô đất đứng tên ông H. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 12/2017/KDTM-GĐT ngày 03-7-2017, Ủy ban Thẩm phán (UBTP) Tòa án nhân dân cấp cao (TANDCC) tại Đà Nẵng đã quyết định không chấp nhận Kháng nghị số 06/2016/KN-KDTM-VC2 ngày 27-12-2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (VKSNDCC) tại Đà Nẵng và giữ nguyên Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng tiếp tục có hiệu lực thi hành. Như vậy, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0064/HĐTC-QSDĐ/CN ngày 21-01-2011 giữa ông H với Ngân hàng Đ đã được Tòa án xem xét, giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Lẽ ra, khi nhận đơn khởi kiện ngày 10-10-2013 của bà T trong khi đã có Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thì Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện cho bà T theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 168 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) nay là điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 mới đúng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn thụ lý và giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà T về việc yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng là Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0064/HĐTC-QSDĐ/CN ngày 21-01-2011 vô hiệu là không đúng quy định nêu trên của BLTTDS. Tòa án cấp giám đốc thẩm không phát hiện ra sai sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm để từ đó khắc phục bằng cách ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định bác yêu cầu khởi kiện của bà T và UBTP TANDCC tại Đà Nẵng (tại Quyết định giám đốc thẩm số 25/2017/DS-GĐT ngày 03-7-2017) quyết định giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng pháp luật”[1].

BÌNH LUẬN

Quyền khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền cơ bản của con người, được pháp luật thừa nhận, bảo đảm thực hiện, theo đó các chủ thể được gửi đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết với tư cách là cơ quan tài phán, nhân danh quyền lực nhà nước bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động trong trường hợp cho rằng bị vi phạm hay có tranh chấp.[2]

Sau khi nhận đơn khởi kiện và chưa thụ lý vụ án, theo điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015, “Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Bên cạnh đó, điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 quy định: “Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý”. Và một trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 là trường hợp “Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” (điểm c).

Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ đi sâu bình luận một số vấn đề pháp lý theo Quyết định giám đốc thẩm đã được đề cập liên quan đến: (1) Xác định sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; và (2) Hệ quả của sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi Tòa chưa thụ lý vụ án, và sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án.

1.Xác định sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

Ở phần này, có hai nội dung cần được xác định: thứ nhất là sự việc đã được giải quyết, và thứ hai là quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

1.1. Xác định sự việc đã được giải quyết

Về mặt ngôn ngữ, “sự việc là cái xảy ra được nhận thức có ranh giới rõ ràng, phân biệt với những cái xảy ra khác”[3] và “giải quyết là làm cho không còn là vấn đề nữa”[4].

Dưới góc độ tố tụng dân sự, sự việc ở đây được hiểu là yêu cầu hay tranh chấp của một hoặc các bên trong một vụ việc dân sự cụ thể nào đó.

Và cũng dưới góc độ tố tụng dân sự, sự việc đã được giải quyết được hiểu là yêu cầu khởi kiện, phản tố, yêu cầu độc lập của các bên trong vụ án dân sự (tranh chấp giữa các bên đương sự), hoặc yêu cầu của chủ thể trong việc dân sự đã được Tòa án giải quyết với kết quả là Tòa án đã ban hành ra bản án, quyết định và bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật. Theo điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015, sự việc cũng có thể được giải quyết bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Trước đó, đối với tranh chấp liên quan đến hiệu lực của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng 05 lô đất đứng tên ông H, TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã giải quyết xong. Cụ thể, trong Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận, HĐTP TANDTC đã xét rằng: “Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013, TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về các nội dung sau: Công ty T thanh toán số tiền 2.461.590.471 đồng cho Ngân hàng Đ vào ngày 02-10-2013; trong trường hợp Công ty T không trả được nợ, phát mãi tài sản bảo lãnh là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với 05 lô đất đứng tên ông H…”. Như vậy, chúng ta có đủ cơ sở đến kết luận rằng: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng 05 lô đất đứng tên ông H đã được Tòa án công nhận là có hiệu lực, Tòa án ra quyết định công nhận việc thực hiện hợp đồng theo sự thỏa thuận giữa các bên là đã khẳng định giá trị pháp lý của hợp đồng thế chấp, và nếu có tranh chấp liên quan đến hiệu lực của hợp đồng thế chấp này thì xem như sự việc đã được giải quyết.

Sau đó, bà T đã khởi kiện đến TAND huyện ĐB, tỉnh QN để yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng 05 lô đất đứng tên ông H nêu trên vô hiệu. Thực chất, yêu cầu khởi kiện của bà T là tranh chấp liên quan đến hiệu lực của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng 05 lô đất đứng tên ông H. Do vậy, trong Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận, HĐTP TANDTC đã tiếp tục xét rằng: “Tại Quyết định giám đốc thẩm số 12/2017/KDTM-GĐT ngày 03-7-2017, UBTP TANDCC tại Đà Nẵng đã quyết định không chấp nhận Kháng nghị số 06/2016/KN-KDTM-VC2 ngày 27-12-2016 của Viện trưởng VKSNDCC tại Đà Nẵng và giữ nguyên Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng tiếp tục có hiệu lực thi hành. Như vậy, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0064/HĐTC-QSDĐ/CN ngày 21-01-2011 giữa ông H với Ngân hàng Đ đã được Tòa án xem xét, giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật”. Điều này có nghĩa rằng, yêu cầu khởi kiện của bà T với nội dung yêu cầu TAND huyện ĐB, tỉnh QN tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng 05 lô đất đứng tên ông H vô hiệu là sự việc đã được TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xem xét, giải quyết xong.

1.2. Xác định quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

Trong Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận, HĐTP TANDTC đã đề cập đến hai quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án và đều đã có hiệu lực pháp luật của các cấp Tòa án khác nhau: Thứ nhất là Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng (Quyết định thứ nhất); và thứ hai là Quyết định giám đốc thẩm số 12/2017/KDTM-GĐT ngày 03-7-2017 của UBTP TANDCC tại Đà Nẵng (Quyết định thứ hai).

Theo chúng tôi, trong vụ việc đang được bình luận, sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án ở đây chính là Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng (Quyết định thứ nhất). Bởi lẽ, theo khoản 1 Điều 213 BLTTDS năm 2015[5] thì “Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”. Khẳng định nêu trên của chúng tôi là phù hợp với yêu cầu của HĐTP TANDTC, bởi lẽ theo HĐTP TANDTC, “khi nhận đơn khởi kiện ngày 10/10/2013 của bà T trong khi đã có Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thì Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện cho bà T”, tức là Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự là căn cứ để Tòa án ra quyết định trả lại đơn khởi kiện cho bà T.

Như đã phân tích, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành. Và như vậy, nội dung khởi kiện của bà T về việc yêu cầu TAND huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu chính là sự việc đã được giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã có hiệu lực. Điều này có nghĩa rằng, nội dung khởi kiện của bà T về việc yêu cầu TAND huyện ĐB, tỉnh QN tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu là trùng khớp, hay đồng nhất với nội dung trong sự việc đã được giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Đối với nội dung vừa trình bày, chúng tôi cho rằng Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận là thuyết phục, bởi lẽ HĐTP TANDTC đã nhận định: “Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013, TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về nội dung sau: (…); trong trường hợp Công ty T không trả được nợ, phát mãi tài sản bảo lãnh là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với 05 lô đất đứng tên ông H…”. Điều này có nghĩa rằng, theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là Hợp đồng có giá trị pháp lý, không bị vô hiệu. Vì Hợp đồng thế chấp có giá trị pháp lý nên Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã công nhận trong trường hợp Công ty T không trả được nợ thì cho phép xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng bằng cách phát mãi quyền sử dụng 05 lô đất đã được ông H thế chấp trong việc bảo lãnh cho Công ty T vay tiền ở Ngân hàng Đ.

Sau khi có Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, thì Viện trưởng VKSNDCC tại Đà Nẵng đã kháng nghị đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên và TANDCC tại Đà Nẵng đã ra Quyết định giám đốc thẩm số 12/2017/KDTM-GĐT ngày 03-7-2017 với nội dung không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã được đề cập. Như vậy, Quyết định giám đốc thẩm số 12/2017/KDTM-GĐT ngày 03-7-2017 của TANDCC tại Đà Nẵng (Quyết định thứ hai) cũng là Quyết định giải quyết vụ án, có hiệu lực pháp luật từ thời điểm ban hành cho đến khi bị HĐTP TANDTC tuyên hủy. Tuy nhiên, Quyết định thứ hai này không phải là Quyết định giải quyết sự việc đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 168 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011, nay là điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015.

2.Hệ quả của sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

2.1. Hệ quả khi Tòa án đã nhận đơn khởi kiện và chưa thụ lý vụ án

Theo Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận, HĐTP TANDTC đã xét rằng: “Lẽ ra, khi nhận đơn khởi kiện ngày 10-10-2013 của bà T trong khi đã có Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30-9-2013 của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thì Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện cho bà T theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 168 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 nay là điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 mới đúng”.

Theo chúng tôi, trả lại đơn khởi kiện là việc sau khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án tiến hành trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện bởi lẽ việc khởi kiện chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nên Tòa án đã nhận đơn khởi kiện không thể tiến hành thụ lý vụ án để giải quyết.

Với thông tin vừa nêu, HĐTP TANDTC chỉ khẳng định Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng được ban hành trước khi bà T nộp đơn khởi kiện tại Tòa án cấp sơ thẩm (TAND huyện ĐB, tỉnh QN), chứ HĐTP TANDTC không cho biết thông tin là TAND huyện ĐB, tỉnh QN có phát hiện được sự tồn tại của Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự do TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ban hành hay không, và nếu biết được thì TAND huyện ĐB, tỉnh QN biết được vào thời điểm nào, trước hay sau thời điểm thụ lý vụ án.

Trong trường hợp này, nếu bà T nộp Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự do TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ban hành kèm theo đơn khởi kiện cho TAND huyện ĐB, tỉnh QN thì TAND huyện ĐB sẽ xác định được sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án vào thời điểm Tòa án chưa thụ lý vụ án. Ngược lại, nếu bà T không nộp Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự do TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ban hành kèm theo đơn khởi kiện cho TAND huyện ĐB, tỉnh QN thì TAND huyện ĐB không xác định được sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án vào thời điểm Tòa án chưa thụ lý vụ án.

Theo quan điểm của chúng tôi, HĐTP TANDTC nhận định “khi nhận đơn khởi kiện ngày 10-10-2013 của bà T trong khi đã có Quyết định công nhận sự thỏa thuận…” là chưa rõ ràng về mặt thực tế của quá trình xử lý đơn khởi kiện ở thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận đơn khởi kiện và đang trong quá trình xử lý đơn khởi kiện, tức là Tòa án cấp sơ thẩm đang xem xét là có thụ lý vụ án hay không. Bởi lẽ, chúng ta chưa rõ là sau khi nhận đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo vào thời điểm chưa thụ lý vụ án, TAND huyện ĐB, tỉnh QN (Tòa án cấp sơ thẩm) đã xác định được, hay chưa chưa xác định được, hoặc không xác định được về sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Sẽ là thuyết phục hơn nếu HĐTP TANDTC cho biết cụ thể là TAND huyện ĐB, tỉnh QN đã biết hoặc chưa biết về sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án ở thời điểm chưa thụ lý vụ án, mà cụ thể ở đây là Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Sau khi khẳng định “Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện cho bà T theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 168 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 nay là điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 mới đúng”, HĐTP TANDTC đã tiếp tục kết luận: “Tòa án cấp sơ thẩm quyết định bác yêu cầu khởi kiện của bà T là không đúng pháp luật”. Điều này có nghĩa rằng, lẽ ra TAND huyện ĐB, tỉnh QN phải trả lại đơn khởi kiện cho bà T do sự việc của bà T đã được giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận đã có hiệu lực pháp luật của TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Theo chúng tôi, HĐTP TANDTC nhận định sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm là sai sót về tố tụng chứ không phải sai sót về nội dung. Ở đây, HĐTP TANDTC không hướng cho Tòa án cấp sơ thẩm phải chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, mà hướng cho Tòa án cấp sơ thẩm là không nên thụ lý vụ án trong trường hợp này, nên trả lại đơn khởi kiện cho bà T.

Ở nội dung này, hướng giải quyết trong Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận là thuyết phục. Bởi lẽ, nếu không theo hướng này thì khả năng có thể là có nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp khác nhau ở hai địa phương trên hai tỉnh/thành phố khác nhau cùng giải quyết và cùng ra quyết định giải quyết một sự việc có nội dung và bản chất pháp lý như nhau.

  • Hệ quả sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án và trong quá trình giải quyết

Theo Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận, HĐTP TANDTC đã xét rằng: “Tòa án cấp giám đốc thẩm không phát hiện ra sai sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm để từ đó khắc phục bằng cách ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015. Do đó, UBTP TANDCC tại Đà Nẵng (tại Quyết định số 25/2017/DS-GĐT ngày 03-7-2017) quyết định giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng pháp luật”.

Theo chúng tôi, đình chỉ giải quyết vụ án là quyết định tố tụng sau khi thụ lý vụ án của Tòa án có thẩm quyền. “Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án được ban hành khi phát hiện có một trong các căn cứ do pháp luật quy định. Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là căn cứ làm chấm dứt quá trình giải quyết vụ án và các đương sự có thể không được quyền khởi kiện lại”[6].

Với nội dung nhận định nêu trên thì HĐTP TANDTC cho rằng Tòa án cấp giám đốc thẩm (ở đây là TANDCC tại Đà Nẵng) đã không phát hiện ra sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm (ở đây là TAND huyện ĐB, tỉnh QN). Điều này có nghĩa rằng, TAND huyện ĐB, tỉnh QN đã có sai sót và sai sót này như đã phân tích chính là việc “khi nhận đơn khởi kiện ngày 10-10-2013 của bà T trong khi đã có Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự” nhưng không “trả lại đơn khởi kiện cho bà T”, và sai sót này cũng chính là việc TAND huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam “vẫn thụ lý và giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà T về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu”.

Theo quan điểm của chúng tôi, HĐTP TANDTC chỉ đề cập đến sai sót của TAND huyện ĐB, tỉnh QN trong việc không trả lại đơn khởi kiện cho bà T mà chưa đề cập đến sai sót của TAND này trong việc không đình chỉ giải quyết vụ án là chưa toàn diện và chưa đầy đủ.

Chúng tôi cho rằng, sai sót của TAND huyện ĐB còn ở điểm không đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp sau khi thụ lý vụ án, nếu Tòa án này phát hiện sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Bởi lẽ sau khi thụ lý vụ án, có thể các đương sự cung cấp, hoặc Tòa án theo yêu cầu của đương sự, hay tự mình thu thập được Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự do TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ban hành thì TAND huyện ĐB, tỉnh QN phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án vì đây là trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định sự việc được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Và nếu thuộc trường hợp này thì TAND huyện ĐB, tỉnh QN phải tiến hành khắc phục luôn sai sót, chứ không chờ đến khi TANDCC tại Đà Nẵng giám đốc thẩm mới tiến hành khắc phục sai sót theo như yêu cầu của HĐTP TANDTC.

Sẽ là thuyết phục hơn nếu HĐTP TANDTC cũng chỉ ra điểm thiếu sót của TAND huyện ĐB, tỉnh QN (Tòa án cấp sơ thẩm) là sau khi thụ lý vụ án, đã biết hay chưa biết sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng và TAND huyện ĐB, tỉnh QN đã thiếu sót trong việc không ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi nhận định “Tòa án cấp giám đốc thẩm không phát hiện ra sai sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm để từ đó khắc phục bằng cách ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015. Do đó, UBTP TANDCC tại Đà Nẵng (tại Quyết định số 25/2017/DS-GĐT ngày 03-7-2017) quyết định giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng pháp luật”, HĐTP TANDTC đã quyết định: “Đình chỉ giải quyết vụ án Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu giữa nguyên đơn là bà T với bị đơn là ông D – Trưởng Văn phòng Công chứng Điện Bàn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng Đ, Công ty T và ông H”. Như vậy, với sai sót của TAND huyện ĐB, tỉnh QN là đã không trả lại đơn khởi kiện cho bà T ở thời điểm chưa thụ lý vụ án, không đình chỉ giải quyết vụ án sau khi thụ lý vụ án, sai sót của TANDCC tại Đà Nẵng là đã không đình chỉ giải quyết vụ án, thì HĐTP TANDTC đã rất thuyết phục trong Quyết định giám đốc thẩm của mình về việc đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

KẾT LUẬN

Thông qua bài bình luận, chúng ta đã có dịp tìm hiểu sâu thêm đối với quy định của pháp luật về việc Tòa án tiến hành trả lại đơn khởi kiện khi đã nhận đơn khởi kiện nhưng chưa thụ lý vụ án, và Tòa án tiến hành đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sau khi thụ lý vụ án trong trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Thông qua Quyết định giám đốc thẩm được bình luận, chúng tôi cũng đã làm rõ như thế nào là sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trong thực tiễn xét xử, bình luận sâu cách xử lý của Tòa án đối với hệ quả của sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là trả lại đơn khởi kiện (khi đã nhận đơn khởi kiện và chưa thụ lý vụ án), hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (sau khi thụ lý vụ án và trong quá trình giải quyết).

TAND thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh xét xử rút kinh nghiệm vụ án dân sự “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” – Ảnh: Nguyễn Thị Thanh Tâm – VKSND tx Từ Sơn

 

[1] Quyết định số 25/2019/DS-GĐT ngày 09-10-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[2] Xem Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 349.

[3] Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương) (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1427.

[4] Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia  (2005), tlđd, tr. 665.

[5] Trước đây, khoản 1 Điều 188 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 cũng đã quy định tương tự: “Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”.

[6] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd, tr. 342.

ThS.NCS. NGUYỄN TRƯƠNG TÍN (GV. Khoa Luật Dân sự - Trường Đại học Luật TP. HCM)